Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước Việt Nam là hoàn toàn phù hợp, đúng đắn!
Độc lập, tự chủ là khả năng của quốc gia trong việc bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và thực hiện quyền tự quyết lựa chọn chế độ chính trị, con đường, mô hình phát triển, về các chính sách đối nội, đối ngoại của mình, không bị sự thống trị, áp đặt, lệ thuộc, chi phối, thao túng từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v.. của đất nước.
Độc lập, tự chủ là mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam, là căn cứ quan trọng nhất để hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của nước ta.
Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước thường xuyên thực hiện những âm mưu, thủ đoạn chống phá đường lối đối ngoại của Việt Nam với nhiều những luận điệu xuyên tạc, điển hình như luận điệu cho rằng chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế chỉ là “lý thuyết viển vông, phi thực tế”; Việt Nam theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “tự mình cô lập mình”, là “tự tách ra khỏi dòng chảy của thế giới bên ngoài”?!; không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế vì “đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ”?!.. Rõ ràng, sự chống phá đó rất nguy hiểm, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh quan hệ với các nước trên thế giới, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng vào đời sống chính trị quốc tế; luận điệu đó làm giảm niềm tin vào đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, gây khó khăn cho Việt Nam trong các hoạt động đối ngoại và xử lý các mối quan hệ quốc tế.
Khẳng định rằng, độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là một nội dung quan trọng trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, được quán triệt, vận dụng vào đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng, vào thực tiễn hoạt động ngoại giao Việt Nam và đã đạt được những thành tựu to lớn cả trong sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và trong thời kỳ đổi mới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”[1]. Song, độc lập tự chủ không có nghĩa là khép kín mà có mối liên hệ hữu cơ với đoàn kết và hợp tác quốc tế. Theo đó, Người chủ trương quan hệ tốt với tất cả các nước, trong đó, ưu tiên thúc đẩy quan hệ tốt với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước lớn. Trong quan hệ với các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự nhạy bén, giữ vững các nguyên tắc bất biến là độc lập, tự chủ, quan hệ hữu nghị, song mềm dẻo và linh hoạt về sách lược theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngoại giao là một mặt trận, phối hợp chặt chẽ với quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa thành sức mạnh tổng hợp, bởi “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[2]; “mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”[3]. Rõ ràng, độc lập, tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự mình phải suy nghĩ, tìm tòi, định ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước. Khẳng định, độc lập, tự chủ là đặc trưng của bản lĩnh chính trị, đối ngoại của dân tộc Việt Nam.
Thấm nhuần quan điểm Hồ Chí Minh, Đảng khẳng định sức mạnh quyết định để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới là ở dân tộc ta, nhân dân ta, sức mạnh ấy do trí tuệ, ý chí của con người Việt Nam và tiềm năng của đất nước mà có. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào tự khép kín, tự cô lập mình với thế giới mà phát triển được. Đặc biệt là với Việt Nam, một nước đang phát triển, nền kinh tế còn lạc hậu thì càng cần phải tranh thủ nguồn lực bên ngoài, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của công cuộc đổi mới. Vì vậy, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu tranh kiên quyết và khôn khéo để thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia. Đó là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hoạt động quốc tế và ngoại giao Việt Nam, được Đảng ta nâng lên thành đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế.
Đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng được đánh dấu từ Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị khóa VI, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Tiếp đó là Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về công tác đối ngoại, xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc... được coi là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Hội nghị Trung ương 4, khoá VIII (tháng 12-1997) đề ra chủ trương: trên cơ sở phát huy tốt nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế là vấn đề cơ bản quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và duy trì sự phát triển bền vững cho đất nước. Trong mối quan hệ giữa nội lực và nguồn lực bên ngoài, Đảng nhấn mạnh: Nếu không độc lập, tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể đứng vững và đi lên một cách vững chắc và cũng không thể khai thác tốt hiệu quả nguồn lực bên ngoài được. Mặt khác, trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta không mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm và thị trường bên ngoài, thì Việt Nam khó thoát khỏi tụt hậu. Vì vậy, Đảng yêu cầu phải nắm vững và quán triệt sâu sắc phương châm giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ nguồn lực tối đa bên ngoài; xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập khu vực và thế giới. Một trong những chính sách lớn mà Nghị quyết nhấn mạnh là “Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài”[4].
Đại hội IX (tháng 4-2001), lần đầu tiên Đảng ta đã làm rõ thuật ngữ về nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá; quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc và bị sự chi phối của bên ngoài.
Đại hội XI xác định: “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”[5]. Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) thêm nội dung mới là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”[6].
Đại hội XII khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[7]. Rõ ràng, Việt Nam là đất nước độc lập, tự cường, luôn có khát vọng và tầm nhìn phát triển, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở. Vì vậy, Việt Nam luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực đang diễn biến phức tạp, khó lường; các nước lớn có sự điều chỉnh về chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”[8]. Đồng thời, nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”[9].
Theo đó, tính toàn diện, sâu rộng, linh hoạt được thể hiện trong chính sách đối ngoại đa phương, Việt Nam phát triển mạng lưới quan hệ quốc tế đa dạng, duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, “coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng;... đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy”[10]. Đồng thời, còn thể hiện ở việc kết hợp chặt chẽ giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, du lịch, qua đó đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn. Việt Nam giữ vững chính sách quốc phòng “bốn không”[11]; Luôn đứng vững trên cơ sở luật pháp quốc tế, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải.
Thực tế đó là minh chứng không thể phủ nhận về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược phức tạp và nhiều xu hướng tập hợp lực lượng đa chiều như hiện nay.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 5, tr.136.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t.4, tr.126.
[3] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964 và 1966, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao
[4] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCH TW khoá VIII, Nxb Nxb. CTQG, H. 1998, tr.8-9, 59.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H. 2011, tr.235-236.
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 72.
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H. 2016, tr. 153.
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H. 2021, t. I, tr. 117 – 118.
[9] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H. 2021, t. I, tr. 164.
[10] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H. 2021, t. I, tr. 162, 163.
[11] Không tham gia liên minh quân sự; Không liên kết với nước này để chống nước kia; Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.