Giải pháp bảo tồn, tôn tạo, gìn giữ và phát huy di tích lịch sử cách mạng xã An toàn khu xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức hiện nay
Quảng Trực là một xã thuộc huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông. Phía Đông giáp xã Đắk Búk So, xã Quảng Tâm, xã Đắk Ngo; phía Tây giáp huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; phía Nam giáp huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; Phía Bắc giáp tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia. Đây cũng là điểm cuối cùng của dãy Trường Sơn, vùng rừng núi giáp ranh giữa Nam Tây Nguyên và Miền Đông Nam bộ, được xác định là khu vực có địa hình, địa thế, chính trị, quân sự quan trọng, đảm bảo an toàn cho hoạt động lãnh đạo, chỉ huy tuyến hành lang tiếp tế Bắc - Nam, là nơi gây dựng, phát triển phong trào cách mạng. Do đó, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trước đây đã bố trí các đồn, chốt vũ trang để khống chế và kiểm soát nơi đây. Với truyền thống lịch sử vẻ vang, anh dũng, kiên cường trong đấu tranh cách mạng, xã Quảng Trực đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là xã An toàn khu tại Quyết định số 798/QĐ-TTg ngày 28/6/2019.
Quảng Trực là xã biên giới, thuộc diện đặc biệt khó khăn, có địa hình đồi núi phức tạp, là địa bàn cư trú của nhiều thành phần dân tộc. Tuy ngôn ngữ và phong tục tập quán khác nhau song lòng yêu quê hương, đất nước đã cố kết họ lại thành một khối vững chắc. Nhân dân các dân tộc xã Quảng Trực có truyền thống đấu tranh chống thực dân, đế quốc rất vẻ vang. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu tranh chống Pháp của đồng bào các dân tộc nơi đây đã phát triển mạnh, nhân dân trong vùng vô cùng căm thù bọn thực dân xâm lược; với ý chí ngoan cường và tinh thần bất khuất, độc lập, tự chủ, nhiều cuộc đấu tranh tự phát nổi lên. Đặc biệt là phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’Nông do N’Trang Lơng lãnh đạo (1912-1936). Trong cuộc đấu tranh, N’Trang Lơng đã tập hợp hầu hết người M’Nông tham gia chống Pháp. Ước tính có khoảng 5.000 người tham gia chiến đấu do ông trực tiếp chỉ huy. Ông đã lập làng chiến đấu theo kiểu thành lũy truyền thống của đồng bào M’Nông, khi thực dân Pháp đến càn quét thì tất cả các thành viên trong bon đều là những chiến sĩ sẵn sàng giết giặc, kể cả người già và trẻ em. Hưởng ứng phong trào này, một số thanh niên ở khu Đắk Huýt, xã Quảng Trực đã tham gia nghĩa quân và trở thành cánh tay đắc lực của thủ lĩnh N’Trang Lơng anh hùng.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Kiến Trực (nay là Quảng Trực) đã trở thành hạt nhân cho việc xây dựng và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc. Không có Kiến Trực thì khó có chỗ dựa để xây dựng, củng cố, mở rộng mạng lưới cơ sở cách mạng ở Kiến Đức. Không phát triển được cơ sở ở Kiến Đức thì nhiệm vụ xây dựng và đảm bảo bí mật cho hành lang sẽ vô cùng khó khăn. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó và trên cơ sở kinh nghiệm xây dựng cách mạng ở Kiến Trực phong trào đã nhanh chóng triển khai rộng ra hàng loạt các bon làng xung quanh và nhiều bon trên địa bàn Kiến Đức.
Xã Quảng Trực là một địa bàn có giá trị chiến lược về mặt quân sự, chính trị, nằm trên đoạn cuối Quốc lộ 14c chạy qua biên giới sang Campuchia - nơi đã có hàng trăm ngàn lượt con người và hàng chục nghìn tấn vũ khí, trang thiết bị đã đi qua an toàn phục vụ cho chiến trường Miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Trong thời gian đó, trên địa bàn xã mặc dù có các đồn, chốt của địch nhưng với tinh thần chiến đấu quả cảm, quân và dân xã Quảng Trực đã làm cho địch khiếp sợ và bị vô hiệu hóa, bảo vệ an toàn cho hành lang tiếp tế chiến trường Miền Nam, giữ vững an toàn khu căn cứ cách mạng, biến nơi đây thành chỗ dựa vững chắc để gây dựng và phát triển phong trào rộng khắp, cũng là nơi một số tướng lĩnh quân đội, cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước chọn làm nơi đứng chân để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Năm 1969, địa bàn xã Quảng Trực đã được giải phóng, đây là khu vực có được đầu tiên trên địa bàn Nam Tây Nguyên do ta làm chủ, nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền và quân đội Ngụy, trở thành khu an toàn, thuận lợi cho việc trú quân, lập căn cứ, tập hợp lực lượng triển khai kháng chiến giải phóng nhiều khu vực khác trên vùng Nam Tây Nguyên của quân và dân ta, đồng thời mở ra tuyến hành lang an toàn cho việc tiếp tế quân lương từ Miền Bắc vào chiến trường Miền Nam - Đông Nam bộ. Sau khi được giải phóng, du kích xã Quảng Trực đã hỗ trợ các địa phương khác đánh hàng chục trận; phối hợp với bộ đội huyện Kiến Đức đánh tại ngã ba Đắk Song, phối hợp với Tỉnh đội đánh vào thị xã Đồng Xoài (nay là thành phố Đồng Xoài); năm 1973, hỗ trợ đánh sân bay Bù Boong, giải phóng Bù Boong, đưa bà con của xã trở về quê cũ; ngoài ra, du kích xã còn hỗ trợ đánh tại Phước Long, Bù Đăng, Kiến Đức, Nhân cơ… và tham gia lực lượng giải phóng tiến về Sài Gòn.
Sự cống hiến của cán bộ, nhân dân xã Quảng Trực đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận khen thưởng gồm: 05 Huy chương kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Ba; 01 Huy chương chiến sĩ giải phóng hạng Ba; 02 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhì, Ba; 05 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 01 Bằng khen hoàn thành tốt nhiệm vụ trên địa bàn; Đồn Bu Prăng 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang; Huyện Tuy Đức được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 295 người được hưởng chế độ theo Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ “về chế độ, chính sách đối với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng chưa được hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước”; 17 người được hưởng chế độ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ “về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc”.
Trải qua chặng đường đầy gian nan, thử thách trong quá trình chiến đấu, xây dựng và phát triển, Quảng Trực hôm nay đang thay đổi từng ngày và có nhiều khởi sắc, hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, như: điện, đường, trường, trạm... đã được đầu tư đồng bộ, khang trang, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong xã ngày càng được nâng lên, nhất là đời sống của các gia đình chính sách từng bước ổn định. Có được như vậy là nhờ sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự đoàn kết, đồng sức, đồng lòng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã đã phát huy truyền thống anh hùng cùng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Giờ đây, để chúng ta nhớ về một thời quá khứ hào hùng nhưng cũng đầy oanh liệt nhằm ghi nhận và tri ân công lao đóng góp, lòng nhiệt tình cách mạng của nhân dân xã Quảng Trực nói riêng, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông nói chung, đồng thời ghi nhận các địa danh lịch sử, góp phần nâng cao hơn nữa giáo dục truyền thống về đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ mai sau.
Với những đặc thù của lịch sử, những kỳ tích hào hùng trong chiến tranh đã để lại cho Quảng Trực nhiều di sản văn hóa vô cùng quý giá. Trong đó, hệ thống di tích cách mạng mang một giá trị và tầm vóc to lớn của lịch sử bởi tính phong phú, độc đáo. Hệ thống di tích này vừa là niềm tự hào, vừa là một tài sản vô giá của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Quảng Trực. Hiện có 08 di tích lịch sử trong đó có 01 Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và 02 Di tích lịch sử cấp tỉnh: Bon Bu Rơ Nga; Địa điểm Bu Prăng; Di tích Quốc gia đặc biệt Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh huyện Tuy Đức (đi ngang qua địa bàn xã Quảng Trực với chiều dài 43,7km); Bia tưởng niệm Tiểu đoàn 840 tại bon Đắk Huýt; Bia Henri; Dấu tích Sở Trà; Sân bay Bù Giao tại bon Đắk Huýt: Đồn Năm sao (Đồn Môch N’tôl) tại bon Đắk Huýt. Mỗi di tích lại chứa đựng trong mình những câu chuyện và giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là một bộ phận quan trọng cấu thành nên kho tàng di sản văn hóa lâu đời của dân tộc, là vốn văn hóa vô giá do ông cha ta ngày trước dày công tạo dựng, vun đắp, đây là niềm tự hào của xã Quảng Trực nói riêng và của tỉnh Đắk Nông nói chung.
Thời gian qua, với sự phối hợp của các Sở, Ban, ngành và chính quyền địa phương các cấp, công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số kết quả nhất định như: lập hồ sơ khoa học và hồ sơ pháp lý di tích; đầu tư xây dựng, tôn tạo di tích; tổ chức hoạt động du lịch, lễ hội gắn với các di tích lịch sử cách mạng; tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng gắn với các di tích lịch sử. Đồng thời, đẩy mạnh sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh đã có nhiều hoạt động triển khai giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ. Qua đó đã nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị lịch sử; góp phần tạo động lực cho kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: hoạt động đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích tuy đã có những thành tựu bước đầu nhưng chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn; công tác xã hội hóa trong việc trùng tu, tôn tạo di tích đạt hiệu quả chưa cao; công tác lập hồ sơ khoa học và xây dựng hồ sơ pháp lý di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh còn chậm; công tác tuyên truyền, vận động người dân trong việc bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh chưa được triển khai thực hiện một cách sâu rộng.
Để tiếp nối truyền thống lịch sử vẻ vang, trong thời gian tới Đảng bộ và chính quyền huyện Tuy Đức cần tập trung chỉ đạo các Ban, ngành, đoàn thể tăng cường phối hợp với chính quyền và nhân dân xã Quảng Trực phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong vùng căn cứ cách mạng; đồng thời nâng cao hiệu quả công tác phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng, thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau nhằm bảo tồn, tôn tạo, gìn giữ và phát huy di tích lịch sử cách mạng xã An toàn khu xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, giáo dục truyền thống cách mạng:
Một là, triển khai thực hiện tốt công tác khảo sát, điều tra xây dựng hồ sơ di tích và tiến hành đầu tư tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, vì đây là tài sản tinh thần vô giá mà các thế hệ cha ông đã để lại cho chúng ta. Do đó, vấn đề tu bổ, tôn tạo, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích là rất quan trọng và cần thiết nhằm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ trong tương lai.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhằm nâng cao vai trò của cộng đồng trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng. Muốn bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử cần nâng cao nhận thức, hiểu biết của con người về lĩnh vực này, từ đó cộng đồng dân cư địa phương phải tham gia vào hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Sự ủng hộ của cộng đồng, vai trò của quần chúng nhân dân là một trong những yếu tố quan trọng, bởi vì chính cộng đồng tạo ra di tích và cũng chính cộng đồng là người sử dụng di tích.
Ba là, khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và các nhà đầu tư tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế, dịch vụ du lịch… nhằm thu hút đầu tư, các nguồn xã hội hóa trong việc bảo tồn, tôn tạo, gìn giữ và phát huy di tích lịch sử cách mạng, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp liên ngành trong quá trình đầu tư, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng như: tiến hành khoanh vùng cho các di tích; bố trí nguồn ngân sách trong việc đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích và tuyên truyền bảo vệ di tích. Ngoài sự phối hợp trên thì công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử còn cần có sự phối hợp liên ngành, trong đó cần chú ý đến sự liên kết chặt chẽ giữa công tác quản lý di tích với các đơn vị khác trong việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm về di tích lịch sử cách mạng. Một thực tế đáng quan ngại đã tồn tại lâu nay là việc các vi phạm pháp luật về di sản văn hóa, nhất là trong các hoạt động liên quan tới tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa (lấn chiếm đất đai di tích, tu bổ di tích sai nguyên tắc...) chậm được xử lý và khắc phục kịp thời. Chính vì vậy, chính quyền địa phương cần giám sát ngăn chặn và báo cáo với cấp có thẩm quyền giải quyết khi có vi phạm di tích xảy ra.
Phạm Lục