Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Đắk Nông (Quảng Đức) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) (Hướng tới kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2021)
Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Chỉ thị xác định Hội Phản đế Đồng minh phải bảo đảm tính công nông; đồng thời phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để mặt trận thực sự là của toàn dân và nhấn mạnh: “giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”.
Hội Phản đế Đồng minh là hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiên cách mạng của Đảng ta. Đó cũng là cống hiến vĩ đại về lý luận và thực tiên của Nguyễn Ái Quốc, là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đủ trưởng thành, đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Từ đó tới nay, tuy có những hình thức và tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thông nhât Việt Nam luôn là nơi tập họp các giai tầng xã hội vì mục tiêu lớn của dân tộc.
Trong suốt chặng đường lịch sử vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đắk Nông (Quảng Đức) luôn kế thừa và phát huy truyền thống của Mặt trận thống nhất Việt Nam, qua từng thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, tuyên truyền, vận động, xây dựng, tập hợp các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh thành một khối đoàn kết, đứng lên chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ phong kiến, sự đô hộ, thống trị của thực dân, đế quốc giành chính quyền về tay Nhân dân, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới và mở đường cho một phong trào giải phóng dân tộc quy mô lớn trên nhiều châu lục. Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn tới việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến sự ở Đông Dương và một tuyên bố chung công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đất nước tạm chia làm hai miền Nam - Bắc để đi đến một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và chọn con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơnevơ thành công cũng như nhiều bức thư gửi đồng bào cả nước và nhiều bài nói, bài viết từ sau giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta là đấu tranh để thống nhất Tổ quốc và vai trò quan trọng của khối đoàn kết dân tộc trên cả hai miền đất nước.
Dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng bí mật, các tổ, đội vũ trang tuyên truyền của ta nhanh chóng thâm nhập xuống tận xã, buôn, bon, xây dựng nhiều cơ sở cách mạng bí mật trong lòng địch. Trong những năm 1955 đến năm 1959, công tác tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân, xây dựng phát triển cơ sở cách mạng được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Nhờ đó, ta móc nối lại số cán bộ cốt cán cũ ở nông thôn, đẩy mạnh xây dựng phát triển cơ sở ở vùng đồng bào các dân tộc; xây dựng cơ sở mới vào vùng địch, thị trấn, các đồn điền. Cán bộ của ta được dân tin yêu, che chở, nhờ đó ta nắm được tề ngụy ở xã, buôn, bon; vận động được đông đảo nhân dân, các già làng và một số tầng lớp trên hình thành mặt trận đoàn kết rộng rãi chống Mỹ- Diệm. Mặt trận đã cùng với các đoàn thể khác tích cực tuyên truyền giáo dục nhân dân ổn định tư tưởng, đoàn kết, thống nhất thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Ngày 20-12-1960, tại Rùm Đuông, xã Tân Lập, huyện Châu Thành thuộc vùng căn cứ bắc Tây Ninh, Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam họp quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội cử ra Ủy ban Trung ương, thông qua Cương lĩnh chính trị và chương trình hành động 10 điểm, kêu gọi các tầng lớp nhân dân miền Nam đoàn kết chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 12 năm 1960, tỉnh Quảng Đức được thành lập, Ban Cán sự Đảng tỉnh ra đời và chủ trương kiện toàn tổ chức Đảng, trước hết là ban cán sự đảng các huyện, nhằm tạo điều kiện tăng cường tổ chức xây dựng thực lực cách mạng trên các địa bàn trọng điểm.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ- Diệm trở nên cấp bách, nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, xu hướng chính trị cùng đấu tranh chống bọn xâm lược Mỹ và đánh đổ ách thống trị của bọn tay sai phản động, thực hiện độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Ngay sau đó, hầu khắp các huyện, tỉnh ở miền Nam đều tổ chức thành lập MTDTGP các cấp. Tại Quảng Đức, Ban Cán sự Đảng tỉnh chỉ đạo các huyện tổ chức Đại hội để thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng của các địa phương. Tháng 2-1961, Đại hội các dân tộc huyện Kiến Đức được tổ chức tại buôn Bu Gân, có hơn 100 đại biểu tham dự đã thống nhất thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng Bớ N'Trang Lơng và bầu ra Ủy ban Mặt trận do ông Bớ Đơm Bơ Ri làm Chủ tịch1. Đại hội thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Khiêm Đức ngày 15- 3- 1961, bầu ra Ủy ban Mặt trận gồm 17 thành viên, do ông Bặp Măng làm Chủ tịch. Tháng 5- 1961, Đại hội Mặt trận huyện Đức Lập được tiến hành tại suối Đắk Rồ, hơn 150 đại biểu các dân tộc huyện Đức Lập dự Đại hội thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng huyện, bầu Ủy ban Mặt trận do ông AMa Hùng làm Chủ tịch. Đại hội xác định nhiệm vụ của Mặt trận và quyết nghị “tất cả những đại biểu, ai có con trai, con gái lớn lên đều phải cho tham gia công tác cách mạng”.
Sau Đại hội thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng các huyện, các đại biểu, già làng tỏa về các buôn làng vận động nam nữ thanh niên hăng hái tham gia lực lượng vũ trang và các đoàn thể cách mạng ở địa phương, điển hình như các buôn Yok Linh, Jarah (Đức Lập). Ủy ban Mặt trận các cấp chú trọng công tác tuyên truyền vận động tăng cường đoàn kết các dân tộc, đoàn kết quân dân, đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng ở các buôn, bon đứng lên phá kìm, chuyển sang thế đấu tranh bất hợp pháp chống địch; tập trung xây dựng củng cố vùng căn cứ kháng chiến, tích cực sản xuất tự túc lương thực; hăng hái đóng góp sức người, sức của cho công tác hành lang; góp phần xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và củng cố các đội công tác vũ trang tuyên truyền vào sâu vùng địch. Đồng thời, qua phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng, Mặt trận cũng đóng góp tích cực vào việc xây dựng các tổ chức đoàn thể như Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, Hội Phụ nữ giải phóng và chính quyền cách mạng cơ sở xã, buôn ở vùng căn cứ, vùng giải phóng, dưới sự chỉ đạo toàn diện của cấp ủy Đảng.
Ngày 16-2-1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất họp và đề ra chủ trương cứu nước khẩn cấp trong tình hình mới. Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, của Trung ương Cục miền Nam và Khu ủy khu VI, đồng thời hưởng ứng công bố bốn điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Tỉnh ủy Quảng Đức đề ra nhiệm vụ chính thời kỳ này là: tiếp tục bảo đảm cho đường hành lang đi qua địa phương an toàn, thông suốt; giữ vững vùng căn cứ, phát triển thực lực cách mạng; chống càn quét, gom dân lập ấp; đồng thời đột ấp phá kìm, đưa đồng bào từ ấp chiến lược về vùng căn cứ cách mạng. Tỉnh chỉ đạo các địa phương thực hiện nhiệm vụ trên với phương châm kết hợp giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và binh vận. Quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, cán bộ, đảng viên, chiến sỹ, các cơ sở trung kiên của ta ở vùng địch hậu, các già làng người dân tộc đã cố gắng tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia cách mạng, thanh niên gia nhập lực lượng du kích xã, buôn, quyết tâm chiến đấu chống địch càn quét, bảo vệ căn cứ cách mạng. Đồng thời tỉnh cũng tăng cường cán bộ, bộ đội về các cơ sở, các trạm giao liên bí mật đưa đón cán bộ qua đường hành lang kết hợp bố phòng chống địch.
Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân Quảng Đức không ngừng vươn lên phát triển lực lượng vũ trang, đột ấp, trừ gian giành nhiều thắng lợi lớn. Dưới ánh sáng của đường lối chiến tranh nhân dân, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hình thức tiến công “hai chân, ba mũi, ba vùng”. Phong trào quần chúng đấu tranh phá ấp chiến lược cùng với sự phối hợp của các lực lượng vũ trang diễn ra sôi nổi, rầm rộ chưa từng có. Đồng bào dân tộc ở những vùng bị gom dân kiên quyết đấu tranh bám đất, giữ làng, nêu cao khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly không rời”. Điển hình của phong trào phá ấp chiến lược thời kỳ này ở Quảng Đức là các ấp Đắk Gằn, Đắk Buk Sor, Sa Pa, Cư Jút, Đức An, Thuận Hạnh (Đức Lập); Bu Đăng Gơr, Bu Blanh (Kiến Đức); bon Sa Na, Khiêm Cần, Khiêm An (Khiêm Đức)...
Những thắng lợi đó của Đảng bộ và nhân dân Quảng Đức nói chung, Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Quảng Đức nói riêng góp phần vào thắng lợi to lớn của quân và dân miền Nam làm phá sản “chiến lược chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới.
Trước tình hình đế quốc Mỹ triển khai chiến lược chiến tranh mới tàn bạo và thâm độc, toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta bước vào một giai đoạn chiến đấu đầy thử thách gay go và phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư chúc Tết Kỷ Dậu 1969 đã kêu gọi nhân dân cả nước ra sức chiến đấu nhằm đạt mục tiêu “Vì độc lập, vì tự do; Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào; Tiến lên chiến sỹ đồng bào; Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn”1.
Tháng 4-1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp ra Nghị quyết về “Tình hình và nhiệm vụ trước mắt” của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích; tổng khởi nghĩa, phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đánh bại âm mưu “kết thúc chiến tranh trên thế mạnh” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của chúng, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, giành thắng lợi quyết định, tiến tới thống nhất nước nhà.
Trước những yêu cầu cấp thiết của giai đoạn cách mạng mới, ngày 6-6-1969 Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam họp và thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sự kiện chính trị trọng đại này là một thắng lợi trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng ở miền Nam, động viên cổ vũ và củng cố lòng tin của nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Đức cũng như toàn Miền Nam vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ đây, tại các vùng căn cứ và vùng giải phóng, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, bên cạnh Mặt trận dân tộc giải phóng còn có hệ thống chính quyền hợp pháp từ huyện xuống cơ sở xã, buôn, đảm nhiệm việc quản lý Nhà nước tại địa phương.
Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng Đức chỉ đạo tập trung sắp xếp, điều chỉnh lại lực lượng; tăng cường phối hợp giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các buôn; đẩy mạnh các mặt hoạt động chính trị, vũ trang, binh địch vận; phát huy bản chất anh hùng cách mạng, kiên định lập trường tư tưởng, đoàn kết, kề vai sát cánh, bình tĩnh tìm cách đối phó với âm mưu, thủ đoạn mới của địch, bảo vệ vững chắc vùng căn cứ và vùng giải phóng. Đặc biệt, ngày 06-3-1970, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 195-NQ/TW về mở cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và đợt kết nạp đảng viên “lớp Hồ Chí Minh”. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Đảng ủy Tỉnh đội đã triển khai thực hiện cuộc vận động này từ cơ quan Tỉnh đội đến các đơn vị bộ đội địa phương đều thực hiện khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” và gắn với thực hiện 5 tiêu chuẩn xây dựng cấp ủy vững mạnh toàn diện để các đơn vị phấn đấu thực hiện.
Cuối tháng 6-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21. Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đề ra tám công tác chính cần nắm vững và làm thật tốt, trong đó có nội dung: tăng cường công tác mặt trận và công tác của Chính phủ cách mạng lâm thời. Tiến tới hình thành một mặt trận rộng hơn Mặt trận dân tộc giải phóng, nhằm đoàn kết, tranh thủ các giai cấp, tôn giáo, dân tộc, các nhân sĩ, các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài để chống Mỹ và tay sai. Trên tinh thần đó, cuối tháng 7 năm 1973, Hội nghị Khu ủy 5 đã họp thông qua Nghị quyết “Ra sức đánh bại kế hoạch lấn chiếm bình định, giành giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực ta”.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, của Khu ủy 5 và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các Tỉnh ủy Đắk Lắk, Lâm Đồng, Phước Long, Đảng bộ các huyện Khiêm Đức, Kiến Đức, Đức Lập, Đức Xuyên và tất cả các đơn vị lực lượng vũ trang hoạt động trên địa bàn tỉnh đã tiến hành đợt chỉnh huấn về tình hình và nhiệm vụ mới. Qua đó, lập trường quan điểm của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước, những tư tưởng lệch lạc như hữu khuynh, hòa bình xả hơi từng bước được khắc phục, phong trào cách mạng của các địa phương tiếp tục củng cố. Từ giữa năm 1973, tỉnh chỉ đạo các huyện đẩy mạnh công tác binh, địch vận đều khắp trên chiến trường nhằm đánh mạnh vào tâm lý chán ngán chiến tranh của binh sĩ địch. Thông qua các cuộc tiếp xúc và bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận động, giải thích chính sách của Mặt trận, nhiều nơi đội công tác đã giáo dục, tác động rõ rệt đến tư tưởng của anh em binh sĩ, làm cho mọi người thấy được âm mưu, thủ đọan của bọn đầu sỏ ngụy quân, ngụy quyền là muốn gây chiến tranh, phá hoại hòa bình. Đồng thời, công tác củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất được kiện toàn từ tỉnh đến các huyện về số lượng, chất lượng, bảo đảm đúng tính chất thành phần của Mặt trận.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Đắk Nông (Quảng Đức) đã góp phần to lớn đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, tiến tới chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng tỉnh Quảng Đức trong tháng 3 năm 1975, cùng nhân dân cả nước với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tổng tiến công, nổi dậy giải phòng hoàn toàn miền Nam vào 30-4-1975, thống nhất đất nước, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ sau giải phóng đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đắk Nông tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục nêu cao vai trò, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động trên cơ sở bám sát các quy định về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đa dạng các hình thức tuyên truyền, vận động, tập hợp để xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy dân chủ, đẩy mạnh giám sát và phản biện xã hội, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; tăng cường đồng thuận, đẩy mạnh phong trào thi đua đoàn kết, sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đẩy manh ứng dụng khoa học - công nghệ, vận động toàn dân tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo đảm an sinh xã hội, hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, xây dựng tỉnh Đắk Nông phát triển bền vững.
Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Điểu Xuân Hùng tặng quà các Mẹ Việt Nam anh hùng tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đắk Nông lần thứ IV, nhiệm kỳ 2019 - 2024
|
Hướng tới kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2021), chúng ta càng tự hào về truyền thống yêu nước, vẻ vang của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam nói chung, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đắk Nông nói riêng, kế thừa và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là nhân tố cơ bản để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu xây dựng quê hương giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phạm Lục
1 . Cuối năm 1961 đầu năm 1962, tại Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Phước Long, ông Bớ Đơm Bơ Ri được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tỉnh Phước Long.
1 . Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 12, Sđd, tr.425.