Lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta
Đảng Cộng sản Việt Nam không có mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội để giải phóng con người Việt Nam thoát khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột.
Để thực hiện mục tiêu này, một mặt, Đảng, Nhà nước ta phấn đấu để mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh, người già cả, neo đơn thì được xã hội, Nhà nước quan tâm, chăm sóc; mặt khác, Đảng chăm lo xây dựng con người Việt Nam mới phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tập trung xuyên tạc, vu cáo với các luận điệu như: Đảng ta, chế độ ta là chế độ “toàn trị”, chà đạp lên quyền công dân và quyền con người; rằng, Nhà nước Việt Nam hiện nay vẫn hạn chế nghiêm ngặt các quyền chính trị của công dân, đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ”; “Chính phủ cộng sản Việt Nam không cho người dân được hưởng những quyền tự do cơ bản nhất”; “Hình ảnh Việt Nam hôm nay là một chính quyền toàn bạo và đàn áp có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội, lập nhóm ôn hòa!?”…Mục tiêu chính của những luận điệu đó nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc…
Thực tế, việc tôn trọng và đảm bảo quyền công dân, quyền con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Điều đó xuất phát từ tình yêu nước và thương dân, nguyện vọng thiết tha của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: “Đất nước được hoàn toàn độc lập, tự do. Đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[1].
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: quyền con người, quyền công dân và quyền dân tộc chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua một cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2]; trong đó, về phương diện xã hội thì: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền,v.v… c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”[3]; về phương diện chính trị thì: a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập…; về phương diện kinh tế thì: “a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái…c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…f) Thi hành luật ngày làm 8 giờ”[4].
Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người”, tức là phải có chiến lược xây dựng con người. Có thể thấy, giành độc lập tự do cho dân tộc, cơm no áo ấm cho đồng bào chính là hiện thân cốt cách, tấm lòng yêu thương con người sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là mục tiêu mà cả cuộc đời Người theo đuổi.
Trung thành và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, con người được phát triển toàn diện, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải phóng con người vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Trên cơ sở xác định, lấy giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 36 năm qua, vấn đề con người luôn được Đảng, Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng đã căn dặn cán bộ, đảng viên không được coi nhẹ yếu tố con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội yêu cầu: “khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[5], “lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động”[6] của Đảng, Nhà nước. Với tinh thần phục vụ con người làm trọng, Đại hội cũng đề ra quan điểm hết sức đúng đắn: “Sự quan tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trong các dịch vụ phục vụ đông đảo nhân dân”[7].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) tiếp tuc khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người”[8]; “Phát triển sự nghiệp khoa học, giáo dục, văn hóa nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người”[9]. Có nghĩa là mọi chủ trương, đương lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung phải vì mục tiêu phục vụ con người Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991): Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”[10]. Cùng với đó, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”[11]. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.
Đại hội lần thứ XII chủ trương “Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”[12], đồng thời khẳng định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”[13]. Để thực hiện chủ trương này, Đại hội đề ra nhiệm vụ giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội; coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người,...
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[14]. Do đó, phải “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững”[15].
Để làm được điều đó, Đại hội XIII xây dựng và hoàn thiện các giá trị văn hóa và con người Việt Nam thời đại mới phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế…Đồng thời, cần: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”[16]. “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”[17]. “Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[18]. “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên”[19]. Quan tâm và nhấn mạnh các nhóm yếu thế trong xã hội, như: trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam ở nước ngoài, v.v. Đồng thời, “Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp…”[20]. Đặc biệt, Đại hội XIII lần đầu tiên đầu nêu yêu cầu: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam”[21]. Các mặt hạn chế của con người Việt Nam cần phải được nhận biết, được phê bình, tự phê bình nghiêm khắc, cần phải được sửa chữa, khắc phục để góp phần xây dựng dân giàu, nước mạnh.
Rõ ràng, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người mà còn khẳng định rằng: Đảng và Nhà nước ta sẽ làm hết sức mình để bảo đảm và thực hiện quyền con người trên thực tế, thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi các biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, để mọi người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần; xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy quyền con người trên đất nước Việt Nam. Đó cũng chính là là những luận cứ đanh thép để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về thực hiện quyền con người, quyền công dân của Đảng, Nhà nước ta, qua đó, củng cố và tăng cường niềm tin của mọi người dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2011, t. 4, tr. 187.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, HN, 2011, t.3, tr.1-2
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2006, tập 48, tr.48.
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2006, tập 47, tr.421.
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2006, tập 47, tr.423.
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2006, tập 51, tr.100.
[9] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2006, tập 51, tr.106.
[10] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, HN, 2011, tr.76.
[11] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN. 2011, tr. 76.
[12] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, HN, 2016, tr.136.
[13] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, HN, 2016, tr.126.
[14] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.27-28.
[15] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.215-216.
[16] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.175-176.
[17] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.177.
[18] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.27-28.
[19] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.172.
[20] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.144.
[21] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, HN, 2021, tập I, tr.143.