Kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội- cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam
“Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta”[1]. Thật vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Xây dựng nguyên lý độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam. Nguyên lý ấy là nền tảng của Cương lĩnh chính trị, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam 93 năm qua.
Lịch sử của dân tộc ta trong suốt chín thập kỷ qua đã khẳng định dứt khoát rằng Đảng và Nhân dân ta đã và đang đi trên con đường đúng, con đường do Mác, Ăngghen và Lênin vạch ra “Đảng ta sở dĩ lãnh đạo được nhân dân làm nên những sự nghiệp vĩ đại ấy, trước hết nhờ nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối trung thành với Mác - Lênin”[2]. Thắng lợi của cách mạng Việt Nma góp phần chứng minh sức sống bất diệt của nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý được rút ra không phải từ một thực tiễn riêng lẻ, bộ phận mà từ toàn bộ lịch sử loài người, đặc biệt từ thực tiễn phong trào công nhân quốc tế. Với tư cách là một khối thống nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của tất cả các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới.
Để hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phải trải qua 45 năm (1930 - 1975) chiến đấu liên tục, gay go, quyết liệt, sử dụng hầu hết tất cả các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao của đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Cách mạng Việt Nam phải đương đầu với nhiều kẻ thù to lớn, có khi phải đối phó với rất nhiều kẻ thù trong cùng một lúc. Đảng ta đã lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé. Trong điều kiện đó, việc xác định tính chất, mục tiêu, động lực, phương pháp cách mạng thật không đơn giản. Đảng ta phải giải đáp các vấn đề ấy bằng cách nắm vững thực chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng lý luận Mác - Lênin như một cách khoa học nhất để phân tích những điều kiện trong nước và quốc tế, tìm ra tính đặc thù của cách mạng nước ta.
Từ đó, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) đã xác định đúng đường lối chiến lược, trúng những vấn đề bức thiết mà lịch sử đặt ra. Cương lĩnh xác định tính chất của cách mạng Việt Nam “tư sản dân quyền cách mạng...phát triển bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”[3], từ sự phân tích hai mâu thuẫn cơ bản, Cương lĩnh nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong gắn với nhau trong cách mạng dân tộc dân chủ. Cương lĩnh nhấn mạnh “Vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”[4]. Có thể nói, đây là vấn đề cốt lõi trong các vấn đề mà Đảng đã giải quyết đúng ngay từ đầu và những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam được nêu trong Cương lĩnh của Đảng phản ánh đúng quy luật phát triển của cách mạng Việt Bam mà lịch sử Đảng 90 năm qua là sự thực hiện nhất quán đường lối đó.
Bản chất trong đường lối chiến lược của Đảng là sự kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam”[5]. Nhờ đường lối đó, đã kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp công nhân và phản ánh đúng xu thế phát triển của thời đại. Nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, ngay từ đầu Đảng đã đánh bại các xu hướng dân tộc cải lương tư sản và nhờ đó, Cương lĩnh khi vừa ra đời đã thu hút quần chúng lao động, nhất là công nhân và nông dân, nhanh chóng đưa cách mạng Việt Nam tới Cao trào 1930 - 1931. Và cho đến thời kỳ 1936 - 1939, Đảng ta đã có thể làm chủ mọi phương pháp đấu tranh kể cả đấu tranh hợp pháp, đấu tranh nghị trường, Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng đã kịp thời chuyển hướng hoạt động, mà trên thực tế là bắt tay vào chuẩn bị cho một cao trào cách mạng mới dẫn đến Cách mạng Tháng Tám 1945, cuộc cách mạng được coi là một trong những điển hình sáng tạo khoa học và nghệ thuật tổng khởi nghĩa.
Thực tiễn chỉ đạo chiến tranh cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng đã phát triển từng bước về bản lĩnh chính trị và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng. Bởi, Đảng có lập trường mácxít - lêninnít kiên định, chiến đấu đến cùng vì lợi ích tối cao của dân tộc, của giai cấp công nhân, đồng thời vì lợi ích quốc tế và phong trào cách mạng thế giới. Lập trường có tính nguyên tắc đó kết hợp với sự khôn ngoan chính trị và dày dạn kinh nghiệm đã đem lại cho Đảng ta sự sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng, khả năng ứng phó nhạy bén và khắc phục mọi khó khăn để giành thắng lợi cách mạng.
Sau cách mạng giải phóng dân tộc, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện khó khăn của một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại bỏ qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Đảng ta xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và những điều kiện, đặc điểm cụ thể của nước ta, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của các nước anh em. “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác”[6]. Trên tinh thần đó, Đảng nêu rõ: “Muốn đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”[7]. Thực chất, đó là sự nghiệp xây dựng cơ chế của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đảm bảo Đảng lãnh đạo, Nhân dân lao động làm chủ và Nhà nước quản lý. Cơ chế ấy là một động lực để tiến hành thắng lợi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta thấy rằng, những đổi thay mà cách mạng đưa lại cho dân tộc ta 93 năm qua quả là to lớn! Từ chỗ Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ thế giới, thì nay dân tộc ta đã bước vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thời đại. Từ kiếp nô lệ, bị áp bức, bóc lột thì nhân dân ta đã đứng lên làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống và vận mệnh của mình. Từ chỗ bị thống trị và chia cắt, nước Việt Nam trở thành một nước độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã được ghi vào lịch sử như những thành quả vĩnh viễn và gắn với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại thực tiễn lịch sử nước ta, chúng ta càng thấy rõ và trân trọng những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân giành được trong chín thập kỷ qua. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam trở thành biểu tượng anh hùng, là niềm tự hào chung của nhân loại tiến bộ toàn thế giới. Thành công trong sự nghiệp cách mạng 93 năm qua chính là chỗ Đảng ta đã kết hợp đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; quy tụ và phát huy sức mạnh của cả dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. “Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”[8]. Có thể khẳng định, tiếp tục kiên định và nhất quán đường lối lãnh đạo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thông qua đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối ấy chính là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia-sự thật, HN, 2011, t.12, tr 406.
[2] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, 2004,t.37, tr.621.
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, 1998,t..2, tr.93-94.
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, 1998,t..2, tr.94.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, 2004,t.37, tr.621.
[6] V.I. Lênin: Toàn tập, 1981,t.30,tr.160.
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, 2004,t.37, tr.507.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2021, tập 1, tr.104.