Nghệ thuật quân sự trong Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 - ý nghĩa và tầm vóc thời đại sâu sắc
Trước tình hình quân Pháp thay đổi kế hoạch tác chiến, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp hội nghị thảo luận và thông qua kế hoạch Đông Xuân 1953-1954.
Theo phương án tác chiến Xuân 1954, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các hướng quân ta triển khai lực lượng, đẩy mạnh tiến công địch trên nhiều mặt trận như: Lai Châu, vĩ tuyến 18, Trung Lào, Hạ Lào, Kon Tum và vùng Bắc Tây Nguyên, vv… Các đòn tiến công chiến lược nói trên cùng với các hoạt động của quân và dân ta ở vùng sau lưng địch, khiến lực lượng cơ động của quân Pháp bị “chia năm xẻ bảy” phân tán trên nhiều hướng.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, điều quan trọng trước hết là xác định chính xác phương châm tác chiến làm cơ sở cho việc hạ quyết tâm chiến đấu. Điều đó xuất phát từ thực tế khách quan và chủ quan. Phải thấy rằng, Bộ Chỉ huy quân đội Pháp thực hiện quyết tâm cao nhất, xây dựng tại lòng chảo Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm hùng mạnh, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và cùng các lực lượng chiến đấu khác với quân số trên 16.000 người và hệ thống thiết bị vũ khí đồ sộ, hiện đại nhằm “nghiền nát” lực lượng chủ lực của Việt Minh. Trong khi đó, các đại đoàn chủ lực của ta dù đã thực hành tiến công các căn cứ phòng ngự của quân Pháp (đánh công kiên), nhưng đây là lần đầu tiên, quân ta tiến công vào một tập đoàn cứ điểm liên hoàn (49 cứ điểm), hệ thống phòng ngự vững chắc, trang bị vũ khí hiện đại.
Với phương châm ban đầu “đánh nhanh, thắng nhanh” có ưu điểm là tạo bất ngờ, giữ được quyết tâm và bảo đảm hậu cần tốt hơn, tuy nhiên, việc xác định phương châm tác chiến cho một chiến dịch quan trọng mang tầm vóc trận quyết chiến, chiến lược đòi hỏi Bộ Tổng Tư lệnh và Tư lệnh chiến trường phải cân nhắc, tính toán và quyết định chính xác. Trên cơ sở so sánh tương quan lực lượng, đánh giá khả năng của quân ta và quân Pháp tại Điện Biên Phủ, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là phải “đánh chắc thắng” theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch. Vì thế, với trọng trách là Tổng Tư lệnh chiến dịch, Bí thư Đảng ủy chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với tập thể Đảng ủy chiến dịch quyết định thay đổi phương châm từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”.
Việc thay đổi phương châm đòi hỏi quyết tâm rất lớn vì công tác chuẩn bị kéo dài, khó khăn về bảo đảm hậu cần và ngay cả công tác tư tưởng cũng vấp phải những ý kiến chưa đồng thuận... Để thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, quân ta phải tổ chức lực lượng và thế trận vây hãm toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ nói chung và bao vây từng trung tâm đề kháng nói riêng của quân Pháp. Nó được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất là, hình thành thế trận bao vây, ngày càng thiết chặt từng cụm cứ điểm và cả tập đoàn cứ điểm, chia cắt thế liên hoàn của chúng
Ngày 05 tháng 12 năm 1953, địch bắt đầu xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ củng là lúc cấp chiến lược ta hạ quyết tâm mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Các đại đoàn 308, 312, 316 304 của ta hình thành thế trận bao vây địch với quy mô lớn quanh cánh đồng Mường Thanh. Từ hạ tuần tháng 01/1954, ta đổi sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc” thì hệ thống chiến hào hàng trăm kilômét siết chặt từng phân khu, từng cụm cứ điểm. Mọi kế hoạch tháo chạy của địch, từ Xê-nô-phôn đến “Diều hâu” của Mỹ và kế hoạch “Chim ưng”, “Chim biển” của Pháp đều không thể thực hiện được vì chiến hào của ta đã bao vây chặt và không ngừng thắt chặt vòng vây áp sát địch. Như vậy, việc ta xây dựng trận địa vững chắc ngày một áp sát địch đã hạn chế được thế mạnh của chúng về máy bay, pháo binh, đường chi viện tiếp tế, tạo điều kiện cho ta tiếp cận tiêu diệt địch hiệu quả hơn. Hệ thống trận địa bao vây, chia cắt từ sau đợt hai chiến dịch, ta đã “trói chặt địch lại” để tiêu diệt lần lượt từng bộ phận, hiệu quả của nó được phát huy cho đến phút cuối, khi ta nổ súng tổng công kích vào sào huyệt cuối cùng chiều ngày 07 tháng 5 năm 1954.
Thứ Hai là, ta tập trung ưu thế binh hỏa lực, hiệp đồng binh chủng, đánh chắc thắng, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, từng bước uy hiếp, tiến tới tiêu diệt khu vực trọng yếu nhất của địch
Lực lượng so sánh ta và địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ ta thấy về bộ binh, ta gấp hai lần quan địch, về pháo binh, ta và địch xấp xỉ nhau. Nhưng địch hơn hẳn ta về máy bay, cơ giới và hệ thống công sự. Rõ ràng bên phòng ngự có lợi thế hơn bên tiến công. Một yếu tố nữa cho thấy, trình độ đánh công sự kiên cố của ta còn nhiều hạn chế. Quân ta lại chưa có kinh nghiệm hợp đồng bộ binh – pháo binh trong tác chiến tập trung quy mô lớn như thế này. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu để ta chọn phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm 49 cứ điểm, tập trung chủ yếu ở phía Bắc cánh đồng Mường Thanh, trên một diện tích khoảng 40km2. Các điểm cao từ Tây Bắc sang Đông Bắc và Đông hình thành những cụm cứ điểm ngoại vi bảo vệ khu trung tâm – sở chỉ huy của địch. Địa bàn giao chiến rộng, so sánh trang bị kỹ thuật chênh lệch, kinh nghiệm đánh công sự kiên cố của ta hạn chế, không cho phép ta “đánh nhanh, giải quyết nhanh” mà chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc”, từng bước tiếp cận và uy hiếp khu trung tâm địch, phá vỡ từng mảng phòng ngự của chúng, đập tan sự chống giữ của từng bộ phận địch, để rồi quyết định bằng đòn tổng công kích vào chỗ trọng yếu nhất của địch ở khu trung tâm - Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thắng lợi của ta trong đợt 1 chiến dịch đã thể hiện rõ sự hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, tạo ưu thế binh hỏa lực hơn hẳn địch, dứt điểm từng cụm cứ điểm và có điều kiện chuẩn bị cho bước tiếp theo. Cách đánh này phản ánh bước phát triển của nghệ thuật chiến dịch được hình thành trong một chiến dịch tiến công trận địa quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống pháp.
Thứ Ba là, chọn cách đánh hiểm, phát huy uy lực mọi thứ hỏa khí của ta, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch
Bước phát triển về chỉ đạo cách đánh của ta được phản ánh sinh động trong đợt tấn công thứ hai. Vấn đề đặt ra là tiếp tục đánh địch bằng cách nào để hạn chế thương vong của ta, vừa khoét sâu hơn nữa chỗ yếu của địch. Trong đợt 2, bộ đội ta chủ trương dùng lực lượng nhỏ, hoạt động rộng dưới các hình thức đánh lấn, phá hủy từng ụ đề kháng, kết hợp với tổ chức lực lượng bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch. Cùng với đó, ta đánh chiếm sân bay, thắt chặt vòng vây, thu hẹp không phận, triệt tiếp tế đường không (con đường duy nhất), bao vây ngày càng áp sát địch, hạn chế uy lực không quân và pháo binh của chúng. Chọn cách đánh hiểm, ta đã làm cho địch quân còn đông mà hóa ít, trang bị còn mạnh mà hóa yếu, tinh thần, vật chất và thế trận của địch rơi vào bất lợi, tạo thế và lực cho ta siết vòng vây bao vây khu trung tâm và chuẩn bị các điều kiện chuyển sang đợt tiến công quyết định.
Điểm phát triển của nghệ thuật chiến dịch được thể hiện trong đợt tiến công thứ 3 là xác định đúng thời cơ đánh đòn quyết định cuối cùng. Bước vào đợt 3 (1-5 đến 7-5-1954), trên cơ sở kết quả chiến đấu của hai đợt trước, quân ta tiếp tục đánh thọc sâu, chiếm cụm cứ điểm cuối cùng của quân Pháp ở phía Đông, chuyển sang tổng công kích đánh chiếm toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều 7.5.1954 – chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã được ghi vào lịch sử nước ta như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Đã 68 năm trôi qua, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi phản ánh sức mạnh của dân tộc ta, mang ý nghĩa và tầm vóc thời đại, để lại những bài học lịch sử có ý nghĩa to lớn cho đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đoàn Văn Kỳ