Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Lúc sinh thời, bằng trải nghiệm hoạt động cách mạng với thực tiễn cực kỳ phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra vị trí, ý nghĩa và sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Người là tấm gương về đoàn kết, đồng hành và tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của trí thức là Việt kiều yêu nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Qua đó, Người gắn bó và kết giao với nhiều nhà hoạt động xã hội tiêu biểu của các nước có cảm tình và ủng hộ cách mạng Việt Nam. Trong Thư chúc Tết Việt kiều ở Lào, Xiêm (năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Các đồng bào tuy mình trú ở nơi đất khách quê người, nhưng lòng vẫn yêu mến cố hương Tổ quốc. Còn Tổ quốc và Chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương các đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đó là nhân tâm thiên lý, đó là tình nghĩa một nhà như thế”[1].Theo đó, Đảng và Nhà nước đã linh hoạt ban hành và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách của đối với kiều bào, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong những năm 1954 - 1959, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, tổng tuyển cử thống nhất đất nước diễn ra ở nhiều quốc gia có đông kiều bào sinh sống. Tại Pháp và nhiều nước, kiều bào đã xuống đường míttinh, lấy chữ ký, vận động nhân dân và dư luận sở tại đấu tranh buộc Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định, chống đàn áp những người kháng chiến.
Trong những năm 1959 - 1965, Đảng và Nhà nước tập trung xây dựng tổ chức chuyên trách, đón tiếp người Việt Nam ở nước ngoài về nước, gây dựng phong trào cách mạng. Ngày 23/11/1959, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 416/NĐ-TTg thành lập Ban Việt kiều Trung ương - tiền thân của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài - đánh dấu mốc phát triển quan trọng của công tác về người Việt Nam ở nước ngoài. Lần đầu tiên, một tổ chức chuyên trách được thành lập để giúp Chính phủ theo dõi và chỉ đạo công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời đóng vai trò là cầu nối giữa kiều bào với quê hương, đất nước.
Ban Việt kiều Trung ương tập trung vào việc xây dựng phong trào Việt kiều yêu nước, làm cơ sở hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thành tích nổi bật của công tác về người Việt Nam ở nước ngoài thời kỳ này là động viên kiều bào đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhân dân, tích cực giúp đỡ và phối hợp với các cơ quan đại diện của ta vận động nhân dân và chính giới các nước, kể cả nhân dân Mỹ, hình thành mặt trận nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ Việt Nam. Tổ chức míttinh, biểu tình tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn; phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi Mỹ thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris..., đồng thời, thiết lập nhiều tổ chức quần chúng có sự chỉ đạo, liên hệ chặt chẽ từ cơ sơ đến Trung ương.
Sau khi đất nước thống nhất, trong giai đoạn 1976 - 1985, nước ta gặp rất nhiều khó khăn do bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây cấm vận và cả sai lầm trong điều hành, quản lý kinh tế, đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Trong giai đoạn đầy khó khăn này, số người Việt Nam di tản, vượt biên ra nước ngoài sinh sống đã tăng đáng kể, do vậy cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về thành phần và phức tạp về quan điểm chính trị. Trong bối cảnh đó, ngày 04/10/1982, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 09-CT/TW về “Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài”, công tác vận động kiều bào từng bước chuyển biến theo hướng tập trung xây dựng nòng cốt, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là về khoa học kỹ thuật và là trợ thủ đắc lực trên mặt trận chính trị và ngoại giao của Việt Nam ở ngoài nước.
Những năm đầu bước vào thực hiện đường lối đổi mới, với những chính sách cởi mở của Đảng và Nhà nước, kiều bào ở nhiều nước đã phát động phong trào vận động quyên góp sách báo, tài liệu khoa học kỹ thuật, trang thiết bị gửi về quê hương. Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, Hội người Việt Nam tại một số nước đã thành lập các nhóm đóng góp trên phương diện khoa học kỹ thuật, cử người về nước tìm hiểu nhu cầu, khả năng hợp tác, xây dựng các đề án, chương trình hợp tác với trong nước, huy động khả năng của các thành viên của Hội và của các bạn bè sở tại.
Ngày 29/11/1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Đây sự kiện quan trọng đánh dấu bước đổi mới về tư duy trong công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Lần đầu tiên, quan điểm “người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” được khẳng định trong văn kiện của Đảng. Văn kiện này là cơ sở để Chính phủ ban hành Nghị định số 74-CP, ngày 30-7-1994, về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài thay thế Ban Việt kiều Trung ương và Nghị định 77/CP, ngày 6/11/1995 của Chính phủ, về đặt Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc Bộ Ngoại giao. Kể từ đó, công tác người Việt Nam ở nước ngoài đã trở thành một trong bốn trụ cột của ngoại giao Việt Nam.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 36-NQ/TW, về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, Nghị quyết nêu rõ: “Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”, ý nghĩa đó trở thành nhận thức chung của tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị và của toàn dân. Có thể thấy, Nghị quyết 36 là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử, có giá trị cơ bản, to lớn, toàn diện và lâu dài thể hiện sâu sắc tư duy đổi mới của Đảng ta về công tác này, được phổ biến rộng rãi trong toàn quốc, với kiều bào và tới tất cả các quốc gia trên thế giới. Quan điểm chỉ đạo đó của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa thành nhiều chính sách, pháp luật liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.
Ngày 19/5/2015, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW, về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Kế thừa những quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 36, đồng thời nhấn mạnh các nhóm nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai thời gian tới, đặc biệt tập trung tháo gỡ những hạn chế, vướng mắc.
Đại hội XII của Đảng (2016) nhận định: Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, “Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước”[2].
Nghị quyết Đại hội Đảng XIII nhấn mạnh: “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại… Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Ðiều này có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao uy tín của cộng đồng người Việt Nam đối với xã hội nước bạn. Qua đó phát huy nguồn lực to lớn, tinh thần yêu nước của đồng bào ta ở nước ngoài hướng về quê hương, đất nước; đồng thời, thể hiện rõ hơn tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Trên cơ sở đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị 45 của Bộ Chính trị (khóa XI), ngày 12/8/2021, Bộ Chính trị vừa ban hành Kết luận số 12 về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Trong đó, tiếp tục khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về củng cố vững chắc đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam nhằm phát huy mạnh mẽ sức mạnh toàn dân tộc cho phát triển đất nước. Đồng thời, tiếp tục thể hiện rõ tình cảm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; đáp ứng nguyện vọng chính đáng, từ đó động viên, khích lệ đồng bào tiếp tục nỗ lực vươn lên, khơi dậy tiềm năng, phát huy nguồn lực to lớn và hướng về quê hương, đất nước.
Thực tế, ngay từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát trên thế giới từ đầu năm 2020 đến nay, mặc dù trong nước còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn rất quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Chính phủ đã triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều chính sách, biện pháp bảo hộ công dân, thiết thực hỗ trợ và động viên kiều bào tuân thủ các biện pháp phòng chống dịch của nước sở tại, tương thân tương ái cùng nhau vượt qua khó khăn của đại dịch. Đến nay, đã thực hiện rất nhiều chuyến bay đưa hàng nghìn công dân về nước an toàn. Bên cạnh đó, kiều bào cũng đã quyên góp tiền cùng nhiều trang thiết bị, vật phẩm y tế ủng hộ cho Quỹ vắcxin và công tác phòng chống dịch ở trong nước, tích cực hợp tác chuyển giao công nghệ nghiên cứu, thử nghiệm vắc-xin, chia sẻ kinh nghiệm phòng chống dịch với trong nước, thậm chí dành cả cơ sở vật chất của mình ở Việt Nam phục vụ phòng chống dịch. Có thể thấy, quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong những năm qua đã thể hiện truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao hình ảnh, uy tín đất nước và vị thế của cộng đồng người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2000, tập 4, tr.245.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 165-166.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, Tập I, tr, 171-172.