Phát triển kinh tế hợp tác xã gắn với cơ cấu lại ngành Nông nghiệp: Thực trạng và giải pháp
Đắk Nông có tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 380.945 ha, chiếm 63,3% diện tích đất nông nghiệp (601.538 ha).
Trong những năm qua, nông nghiệp Đắk Nông đang có sự chuyển dịch cơ cấu tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ đem lại những hiệu quả rõ nét. Năm 2021, tốc độ tăng trưởng ngành Nông nghiệp đạt 4,45%, tổng sản phẩm nông nghiệp đạt 13.193 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,11%, giữ vai trò là 1 trong 3 trụ cột của nền kinh tế của tỉnh; giá trị sản xuất bình quân đạt khoảng 86 triệu đồng/ha; định hình và phát triển được 23 sản phẩm chủ lực, ngành hàng thế mạnh, ngành hàng tiềm năng với năng suất và chất lượng cao; hình thành 01 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô 120 ha; công nhận 04 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô 2.432 ha (01 vùng cà phê, 02 vùng tiêu và 01 vùng lúa); xây dựng được 15 thương hiệu, nhãn hiệu tập thể và 01 Chỉ dẫn địa lý “Đắk Nông” đối với sản phẩm hồ tiêu của tỉnh; thị trường xuất khẩu được mở rộng đến 35 quốc gia, vùng lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng khá, giá trị đạt khoảng 720 triệu USD.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành nông nghiệp Đắk Nông còn những tồn tại, hạn chế như: sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa bền vững; cơ khí hóa, hiện đại hóa chưa đồng bộ; sức cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa tập trung; liên kết theo chuỗi giá trị còn ít; nông sản chủ yếu tiêu thụ dưới dạng thô, tỷ lệ nông sản qua chế biến sâu không đáng kể, tiêu thụ qua nhiều khâu trung gian; hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, thích ứng với biến đổi khí hậu…
Quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát huy vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Trong những năm qua, tỉnh Đắk Nông đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thúc đẩy khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển. Trong đó, trọng tâm là xây dựng hợp tác xã kiểu mới theo hướng liên kết chuỗi giá trị gắn với ngành hàng chủ lực của tỉnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp, các Hợp tác xã phát triển mạnh về số lượng, chất lượng; mở ra nhiều dịch vụ mới, phục vụ và mang lại lợi ích thiết thực cho các thành viên Hợp tác xã và nông dân; từng bước hình thành các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; qua đó tăng cường niềm tin của người dân về kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 03 Liên hiệp HTX với 24 HTX thành viên; 177 Hợp tác xã nông nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, cung ứng dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ sau thu hoạch, thủy lợi với 3.650 thành viên, vốn điều lệ khoảng 92 tỷ đồng; thu nhập bình quân của thành viên HTX khoảng 60 triệu đồng/năm; trong đó, có 16 HTX sở hữu sản phẩm OCOP; tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp với khoảng 2.280 tổ viên; doanh thu bình quân khoảng 200 triệu đồng/năm/HTX; 284 trang trại đạt tiêu chí theo Thông tư số 02/2020/TT-BNNPTNT ngày 28/02/2020 của Bộ Nông nghiệp và PTNT (trong đó 68 trang trại trồng trọt; 137 trang trại chăn nuôi; 79 trang trại tổng hợp).
Không chỉ giữ vai trò quan trọng trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, những năm qua, các Hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp đã thể hiện tốt vai trò cùng với chính quyền, đoàn thể địa phương thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Ở những nơi có Hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp hoạt động, nhìn chung, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tạo diện mạo mới cho khu vực nông thôn. Bên cạnh việc tổ chức lại sản xuất, thực hiện liên kết chuỗi sản xuất hàng hóa, Hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp còn là đầu mối quan trọng cung cấp nhiều dịch vụ thiết yếu cho thành viên HTX, THT và cộng đồng dân cư, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, qua đó không chỉ góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống cho người dân, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất ở khu vực nông thôn mà còn làm thay đổi nhận thức của nhiều nông dân về vai trò của HTX trong giai đoạn phát triển mới.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng, phát triển các Hợp tác xã, tổ hợp tác trong nông nghiệp thời gian qua còn một số hạn chế, bất cập, cụ thể: công tác tuyên truyền phát triển, xây dựng, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả, liên kết tiêu thụ còn hạn chế, thiếu chiều sâu; phần lớn các HTX, THT, Trang trại sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phục vụ thành viên chưa nhiều; trình độ chuyên môn và năng lực cán bộ quản lý của các HTX còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được nhiệm vụ tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay; các thành viên trong HTX, THT chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của liên kết; sản xuất còn, manh mún, chưa thật sự năng động, nhạy bén với thị trường, kinh doanh; tính cạnh tranh của sản phẩm chưa cao do mẫu mã, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu; thiếu các doanh nghiệp tham gia liên kết tiêu thụ, khâu quảng bá, giới thiệu sản phẩm còn hạn chế; Hợp tác xã nông nghiệp mang tính đặc thù, hoạt động trong lĩnh vực với nông nghiệp, nông thôn có nhiều rủi ro về thiên tai, dịch bệnh, thị trường; chủ thể, thành viên hợp tác xã là nông dân nên năng lực và khả năng thu hút đầu tư thấp.
Phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập để tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác (HTX, THT, kinh tế trang trại…) trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới cấp ủy, chính quyền, các Hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp sau.
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của các cấp ủy, chính quyền trong việc phát triển HTX, tổ hợp tác gắn với tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực của từng địa phương phù hợp với định hướng cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, hiện đại, hiệu quả; qua đó, nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; góp phần chuyển đổi tư duy của người nông dân từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.
Thứ hai, Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ hợp tác, HTX liên kết với doanh nghiệp hoặc phát triển thành loại hình sản xuất doanh nghiệp trực thuộc HTX; phát triển HTX trở thành đơn vị tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ logistics, tư vấn kỹ thuật nông nghiệp,…
Thứ ba, mỗi địa phương xây dựng kế hoạch sản xuất nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường, định hướng phát triển HTX, tổ hợp tác gắn với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực; phát huy vai trò của KTTT, HTX trong thực hiện từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, trở thành đầu mối liên kết chính trong sản xuất và tiêu thụ nông sản; tiến tới sản xuất theo nhu cầu và đặt hàng của thị trường.
Thứ tư, Hỗ trợ kết nối cung cầu theo chuỗi giá trị nông sản giữa các HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp với các siêu thị, cửa hàng thực phẩm, hệ thống phân phối hiện đại tại các thành phố lớn trong cả nước, các sàn thương mại điện tử có uy tín để quảng bá, giới thiệu và tiêu thụ nông sản.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ quản lý, điều hành HTX đáp ứng xu thế chuyển đổi số, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị nông sản.
Thứ sáu, Khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ các HTX, tổ hợp tác ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào quản lý, hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật sản xuất; đẩy mạnh hoạt động sàn giao dịch thương mại điện tử của tỉnh cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực.
Thứ bảy, nâng cao vai trò của HTX, Tổ hợp tác trong thực hiện chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” - OCOP; tạo điều kiện mở rộng, đa dạng hóa các hoạt động dịch vụ của HTX gắn với chuỗi giá trị để đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống của người dân.
Thanh Tùng