Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội. Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát triển.
Nhận thức rõ điều đó, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Công hòa ra đời (1945), Đảng luôn chú trọng lãnh đạo phát triển sự nghiệp y tế. Ngành y tế từng bước phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu quan trọng, tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Trên cơ sở hiểu một cách đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe trong kháng chiến và kiến quốc: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe... Dân cường thì nước thịnh”[1] hay “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần sức khỏe mới thành công”[2].
Ngày 25/8/1945, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Y tế được thành lập. Đây là cơ quan y tế đầu tiên trong Chính phủ chuyên chăm lo công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tháng 12/1945, Bộ Y tế đã lập Ban Y tế Vệ quốc đoàn. Tháng 3/1946, Cục Quân y trực thuộc Bộ Quốc phòng được thành lập.
Từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đặc biệt tới công tác lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư phát triển ngành y tế, đề ra các chủ trương, chính sách nhằm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Có thể thấy, từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng ta luôn chú trọng đề ra chủ trương phát triển ngành y tế, tạo cơ sở để chăm sóc ở mức cao nhất sức khỏe cho nhân dân. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Sức khỏe của nhân dân, tương lai của giống nòi là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta, là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi công dân” và chủ trương “tiếp tục quán triệt các quan điểm y học dự phòng, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền và phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”,... tập trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân”[3].
Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14-1-1993 của Hội nghị Trung ương 4 khóa VII “về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân” nêu lên quan điểm mới có tính đột phá để Nhà nước và ngành y tế thực hiện: “Việc xác định số cán bộ y tế cơ sở là viên chức nhà nước do Chính phủ nghiên cứu và quyết định. Tổ chức các đội y tế lưu động để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở những nơi có khó khăn thuộc vùng cao, vùng núi, vùng sâu, hải đảo”[4].
Lần đầu tiên tại Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22-01-2002 “Về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở”, Ban Bí thư nêu quan điểm chỉ đạo: “Ngành y tế có trách nhiệm phối hợp với các ngành liên quan xây dựng chuẩn quốc gia về y tế cơ sở; nâng cao năng lực chuyên môn và y đức của các cán bộ y tế, v.v..”[5]. Quan điểm xây dựng chuẩn quốc gia về y tế là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm người dân được chăm sóc sức khỏe ban đầu, tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng ngay tại cơ sở.
Quá trình đổi mới nhận thức về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân thể hiện tập trung tại Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23-2-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, trong đó xác định mục tiêu là: “Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khỏe, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở và thói quen giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[6].
Văn kiện Đại hội X (2006), Đảng cho rằng: “Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe”[7]. Đến Đại hội XI (2011), Đảng chủ trương phát triển y tế cả bề rộng lẫn chất lượng: “Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân”[8]
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” đã nâng tầm nhận thức về y tế cơ sở, đưa ra quyết sách mới: “Thiết lập hệ thống sổ sức khỏe điện tử đến từng người dân. Thực hiện cập nhật các thông tin, chỉ số sức khỏe khi đi khám sức khỏe, chữa bệnh”[9].
Đại hội XII (2016), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Huy động các nguồn lực, tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống bệnh viện, trạm y tế, phòng khám bệnh, coi trọng chăm sóc sức khỏe ban đầu. Phát triển hệ thống y tế dự phòng và các dịch vụ y tế hiện đại. Phát triển y học dân tộc, có chính sách khuyến khích thích đáng sản xuất và chữa bệnh bằng thuốc nam. Tiếp tục bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc nhân dân giữa các các địa bàn, các nhóm đối tượng”[10].
Đồng thời, Đảng đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017 “Về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”. Nghị quyết 20 nêu rõ: Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thông chính trị và toàn xã hội; đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành y tế là nòng cốt. Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là đầu tư cho phát triển...
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm của Đảng. Theo đó, nhiệm vụ trong thời gian tới là: “Đẩy mạnh phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao, nâng cao sức khoẻ cho người dân cả về thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc sống, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Chăm lo phát triển về chất lượng, đảm bảo quy mô, cơ cấu dân số hợp lý…Tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, đảm bảo các dịch vụ cơ bản, người dân được quản lý, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh… Thiết lập hệ thống sổ sức khỏe điện tử đến từng người dân. Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tỷ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%”[11]. Đồng thời, “Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chưa trị kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh mới. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Phát triển y học cổ truyền, gắn với y học hiện đại; nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng minh tác dụng của các phương thức chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền”[12].
Bên cạnh đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021- 2030, Đảng ta xác định: “… Phấn đấu trên 95% dân số được quản lý, theo dõi và bảo vệ, chăm sóc sức khỏe… 32 giường bệnh và 11 bác sĩ trên 1 vạn dân…tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế trên 95% dân số, đa dạng mức đóng và mức hưởng… Nâng cao chất lượng công tác dự báo, giám sát, phát hiện, khống chế, ngăn chặn hiệu quả, không để dịch bệnh lớn xảy ra, ứng phó kịp thời các vấn đề khẩn cấp, sự cố môi trường, bảo đảm an ninh y tế. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế xã, phường, thị trấn bảo đảm thực hiện đúng vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ của người dân trên địa bàn. Phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm HIV, tiến tới chấm dứt bệnh dịch AIDS trước năm 2030”[13].
Về xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, Đại hội XIII xác định: “Sắp xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành”[14]. Trong đó nhấn mạnh công tác đào tạo cán bộ y tế phải được đổi mới về chương trình, nội dung, chủ động tiếp cận các chương trình đào tạo y khoa tiên tiến: “Đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo nhân lực y tế, đáp ứng yêu cầu cả về y đức và chuyên môn trong điều kiện chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”[15] nhằm thực hiện mục tiêu đạt tỷ lệ 11 bác sĩ/ vạn dân trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Đồng thời, xác định phải thực hiện luân chuyển cán bộ, quy hoạch lại mạng lưới y tế, sắp xếp và bố trí cán bộ ở các tuyến: “Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới”[16]
Chính sách đãi ngộ là một trong những giải pháp cần được xem xét cho phù hợp với đặc thù nghề nghiệp để cán bộ y tế yên tâm làm việc và cống hiến: “Xác định bậc lương khởi điểm phù hợp với thời gian đào tạo. Có chính sách đủ mạnh để khuyến khích người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở... và trong các lĩnh vực y tế dự phòng, pháp y, tâm thần, lao, phong,…”[17]
Có thể thấy, trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tích cực và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, hệ thống y tế ngày càng hoàn thiện và phát triển, công tác vệ sinh phòng dịch bệnh được thực hiện tốt, nhân dân được hưởng dịch vụ y tế ngày càng chất lượng. Nhờ đó, sức khỏe của người dân ngày càng được nâng lên, hầu hết các dịch bệnh được khống chế và ngăn chặn kịp thời.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2011, tr.241.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2011, tr.241.
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.93.
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.52, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2007, tr.525.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.61, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2016, tr.76.
[6] ĐCSVN: Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23-2-2005 của Bộ Chính trị BCHTW (khóa IX) về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.102.
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.128.
[9] Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2017, tr.143.
[10] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG Hà Nội, 2016, tr.139.
[11] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập II, tr 136-137.
[12] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập II, tr 138.
[13] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập I, tr 267-268.
[14] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập I, tr 143-144.
[15] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập I, tr 147-148.
[16] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập I, tr 137.
[17] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐH toàn quốc lần thứ XIII, NXB.CTQGST, HN 2021, tập I, tr 147-148.