Đắk Nông – đánh thức tiềm năng, lợi thế phát triển công nghiệp chế biến
Địa hình của tỉnh Đắk Nông đa dạng và phong phú, có sự xen kẽ giữa các địa hình thung lũng, cao nguyên và núi cao. Địa hình thung lũng là vùng đất thấp phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc khu vực các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình tương đối bằng phẳng, có độ dốc từ 0-30, thích hợp với phát triển cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Địa hình cao nguyên chủ yếu ở Đắk G’long, Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình trên 800 m, độ dốc trên 150.
Đây là khu vực có đất bazan là chủ yếu, rất thích hợp với phát triển cây công nghiệp lâu năm, lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Địa hình núi phân bố trên địa bàn huyện Đắk R'Lấp. Đây là khu vực địa hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn. Đất bazan chiếm phần lớn diện tích, thích hợp với phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, điều, tiêu.
Khí hậu Đắk Nông mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Nhiệt độ trung bình năm 22-230 C, nhiệt độ cao nhất 350C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 140C, tháng lạnh nhất vào tháng 12, rất phù hợp với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm.
Lượng mưa trung bình năm từ 2200-2400 mm, lượng mưa cao nhất 3000mm, hầu như không có bão nên không gây ảnh hưởng đối với các cây trồng dễ gãy, đổ như cà phê, cao su, tiêu v.v.
Đắk Nông có mạng lưới sông suối phân bố tương đối đều khắp. Đây là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện phục vụ các ngành kinh tế và nhu cầu dân sinh.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 650.927 ha, trong đó: Đất nông, lâm nghiệp, diện tích là 587.927,92 ha, chiếm 91,01% tổng diện tích tự nhiên. Đất sản xuất nông nghiệp có diện tích 306.748,89 ha; đất phi nông nghiệp, diện tích 42.306 ha, chiếm 6,49% tổng diện tích tự nhiên; đất chưa sử dụng, diện tích còn 21.326 ha, chiếm 3,27% diện tích tự nhiên.
Tài nguyên khoáng sản, trên địa bàn tỉnh Đăk Nông có 178 mỏ và điểm mỏ khoáng sản với 16 loại khoáng sản chủ yếu: bauxit, wolfram, antimoal, bazan bọt, bazan cột, bazan khối, cát xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói, than bùn, opal, thiếc sa khoáng, kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir.
Nguồn nhân lực của tỉnh, tính đến năm 2021, dân số toàn tỉnh là 637.905 người. Dân cư phân bố không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ. Có những vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức. Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm 40 dân tộc cùng sinh sống. Cơ cấu dân tộc đa dạng, chủ yếu là dân tộc Kinh, M'Nông, Tày, Thái, Ê Đê, Nùng v.v…Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 32% trong đó số lượng lao động kỹ thuật qua đào tạo khoảng 24%. Phần lớn lực lượng lao động là lao động chân tay trong các ngành nông, lâm nghiệp. Do vậy, nguồn lao động kỹ thuật nông nghiệp sẽ là một động lực cho phát triển một nền nông nghiệp chất lượng cao.
Nguồn lực bên ngoài, xu hướng toàn cầu hóa tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ; tác dộng cách mạng công nghiệp 4.0; tự do hóa kinh tế và tài chính tiếp tục gia tăng, nhiều hình thức liên kết kinh tế mới xuất hiện. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế, điều chỉnh các thể chế điều tiết kinh tế - tài chính toàn cầu diễn ra mạnh mẽ cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ, vv... sẽ mở ra những cơ hội và thách thức mới cho sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có tỉnh Đắk Nông.
Đắk Nông tiếp giáp về biên giới đất liền với Campuchia. Việc nâng cao sự hợp tác và hiểu biết giữa hai quốc gia, hai địa phương nhất là hoàn thành giải quyết vấn đề cắm mốc biên giới, sẽ tạo điều kiện cho phát triển giao thương kinh tế giữa các tỉnh trong vùng với các địa phương Campuchia, đặc biệt trong vấn đề về hợp tác kinh tế, khai thác, chế biến, xuất nhập khẩu, kinh tế cửa khẩu, vv...
Định hướng phát triển các ngành công nghiệp chế biến sẽ tập trung vào: phát triển các mặt hàng có lợi thế như cà phê, cao su, tiêu, điều, bột giấy, gỗ, nhôm, v.v...Phát triển công nghiệp chế biến, thuỷ điện, khai thác và chế biến khoáng sản Alumil – Nhôm Nhân cơ. Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông.
Một số sản phẩm, ngành công nghiệp khai thác, chế biến hàng công, nông, lâm nghiệp có lợi thế phát triển trên địa bàn Tây Nguyên và khả năng cạnh tranh sản phẩm của tỉnh Đắk Nông: sản xuất ngô, cà phê, điều, cao su, bông sợi, nguyên liệu giấy, sản phẩm chăn nuôi, có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, hải sản, nuôi ong lấy mật, vv… gắn với phát triển công nghiệp chế biến, cung cấp cho các vùng đô thị lớn. Tỉnh Đắk Nông gần vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh, với lợi thế của mình có thể phát triển chăn nuôi, đặc biệt là nuôi heo, trâu, bò để cung cấp thịt hơi, sữa cho các địa bàn trên.
Ngoài các sản phẩm trên, các sản phẩm của cây công nghiệp ngắn ngày khác như lạc, đậu tương...có thị trường lớn. Đắk Nông có lợi thế phát triển các cây này để cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở công nghiệp chế biến trong và ngoài tỉnh.
Sản phẩm Nhôm nhà máy Alumin Nhân Cơ, có công suất thiết kế 650.000 tấn, bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2017, sản lượng đạt trên 500.000 tấn và chủ yếu là xuất khẩu. Doanh thu xuất khẩu đạt gần 4.000 tỷ đồng, nộp ngân sách địa phương trên 250 tỷ đồng và giải quyết việc làm cho hơn 1.000 người. Dự án trọng điểm của tỉnh là nhà máy điện nhôm Đắk Nông có công suất 450.000 tấn/năm, tổng vốn đầu tư 690 triệu USD, được xây dựng tại Khu công nghiệp Nhân Cơ, đến nay nhà máy đã đi vào hoạt động có hiệu quả.
Tây Nguyên nói chung, Đắk Nông nói riên còn có tiềm năng lớn về phát triển thủy điện và công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản, khoáng sản và tiềm năng phát triển du lịch. Ngày 9-6, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 tại Quyết định số 879/QĐ-TTg; Vùng Tây Nguyên phát triển công nghiệp chế biến cây công nghiệp, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng.
Như vậy, tỉnh Đắk Nông có tiềm năng, lợi thế để đẩy mạnh phát triển công nghiệp khai thác, chế biến, góp phần vào chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản cho thị trường trong nước và xuất khẩu; phát triển sản xuất vật liệu xây dựng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình thủy điện. Khuyến khích phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề ở nông thôn, nhất là các làng nghề truyền thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hình thành các điểm công nghiệp, các làng nghề tại các thị trấn, thị tứ, trung tâm cụm xã, vv…
Tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, tập trung hai mũi nhọn có lợi thế lớn là công nghiệp chế biến sâu alumin - nhôm - sắt xốp và chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm nghiệp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ, tập trung cho dịch vụ tài chính-ngân hàng, dịch vụ nông nghiệp, chuyển giao khoa học - công nghệ và dịch vụ hỗ trợ công nghệ alumin - nhôm - sắt; đẩy mạnh thu hút đầu tư để tạo nguồn lực mới thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; phát triển hệ thống doanh nghiệp - hợp tác xã và kinh tế hợp tác.
Đảng bộ sẽ lãnh đạo tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo, vận dụng cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút các nguồn lực xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục một cách toàn diện, góp phần tạo nguồn lực có chất lượng. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Phát huy những thành quả đạt được, đánh giá, nhìn nhận tồn tại, hạn chế, đúc rút những bài học kinh nghiệm sâu sắc, triển khai nhiều giải pháp khả thi phục vụ phát triển một cách hiệu quả nhất sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp khai tác, chế biến nói riêng trong thời gian tới, sớm đưa Đắk Nông thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, cùng với cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Đoàn Văn Kỳ