Không thể xuyên tạc thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám lịch sử (Kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2022))
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng của thế kỷ XX, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam.
Đó là một mốc son chói lọi trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc – thực dân. Bài học lớn, xuyên suốt quá trình cách mạng của cách mạng Tháng Tám là bài học về thời cơ cách mạng, là sự kết hợp đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp; là sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ tối cao của cách mạng. 77 năm trôi qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa cùng những bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục tỏa sáng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Vậy mà, những phần tử cơ hội, xét lại trong và ngoài nước cố tình phủ nhận thành quả vĩ đại ấy của dân tộc. Cho rằng: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là sự ăn may của Cộng sản Việt Minh”?! mà không phải là do sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải là kết tinh sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Thực chất, những luận điệu mang tính phủ nhận lịch sử, xuyên tạc lịch sử không chỉ xuất hiện ngày một ngày hai mà đã lặp đi lặp lại trong một thời gian rất dài của các thế lực thù địch, với mục đích để “nhuộm đen” tinh thần, “nhuộm đen” tư tưởng của các tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do đó, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ phản động ấy là vấn đề cấp thiết và thời sự hiện nay.
Lịch sử là sự thật, luôn khách quan và công bằng
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta những năm 30, 40 của thế kỷ XX, chắc chắn rằng tất cả những người có lương tri, có tư duy đều dễ dàng nhận thấy thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành quả của sự đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh của toàn dân tộc. Đặc biệt, thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nhờ có tư duy sắc sảo, nhạy bén, sáng tạo, quyết đoán của Đảng ta trong xác định, lựa chọn thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa.
Dự báo thời cơ: Ngay từ Hội nghị Trung ương 8, tháng 5-1941, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã nhận định, cách mạng muốn giành thắng lợi, phải có những điều kiện khách quan: “Đó là quân Trung Quốc đại thắng quân Nhật, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật bùng nổ, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi, quân Đồng minh (Anh, Mỹ, Tưởng) tràn vào Đông Dương”[1], “tất cả các điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển và rồi đây lực lượng sẽ lan rộng toàn quốc để gây một cuộc khởi nghĩa toàn quốc rộng lớn”[2].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành công”[3]. Trên cơ sở phân tích đó, cả nước chuẩn bị mọi điều kiện cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân bằng việc xây dựng lực lượng chính trị; xây dựng lực lượng vũ trang; xây dựng căn cứ địa cách mạng…
Khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra (7-12-1941), không ít ý kiến cho rằng, cuộc chiến tranh này đã tạo ra thời cơ chín muồi cho cuộc cách mạng ở Đông Dương, tình hình đã bước vào thời kỳ trực tiếp của cách mạng. Nhưng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều kiện chưa đủ chín muồi, chưa thể có tình thế cách mạng. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo, nếu tình thế chưa cho phép khởi nghĩa mà cứ khởi nghĩa thì khác nào ném đội tiền phong vào một cuộc chiến đấu mạo hiểm, không có triển vọng giành thắng lợi, không thể đưa phong trào tiến lên phía trước.
Nắm bắt thời cơ: Bước sang những năm 1943-1944, Đảng ta phân tích một cách khách quan, toàn diện tương quan lực lượng giữa Nhật, Pháp, từ đó nhận định: “Chúng ta đang tiến tới tình hình tổng khủng hoảng chính trị ở Đông Dương. Phải kịp mài gươm, lắp súng để mai đây Nhật, Pháp bắn nhau, kịp nổi dậy tiêu diệt chúng, giành lại giang san, Tổ quốc”[4]. Và khẩn thiết kêu gọi: “Bỏ lỡ cơ hội là một tội ác. Phải sẵn sàng đón lấy thời cơ và chuẩn bị đủ điều kiện tóm lấy nó”[5]. Rõ ràng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã dự báo khá sớm về mâu thuẫn Nhật-Pháp và tất yếu sẽ dẫn đến cuộc đảo chính của Nhật để hất cẳng Pháp.
Việc phân tích thực tiễn tình hình thời cuộc, khi cả bộ ba phátxít Đức - Ý - Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ 2, tháng 10-1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra dự báo: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”[6].
Chọn thời cơ lịch sử, giành chính quyền về tay Nhân dân: Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, tình thế mới tạo ra điều kiện và thời cơ mới. Nhưng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cho rằng, tuy tình hình chính trị có sự khủng hoảng sâu sắc nhưng “Điều kiện tổng khởi nghĩa chưa thật chín muồi song đang mau tiến tới chín muồi” và nhấn mạnh “Toàn bộ công tác của Đảng phải nhằm vào mục đích gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa”, “phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”[7].
Theo đó, ngày 12-3-1945, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương mở rộng ban hành Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nêu rõ: “Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước và làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thực hiện khởi nghĩa từng phần ở những địa phương có điều kiện”. Theo đó, cách mạng nước ta phát triển từ khởi nghĩa từng phần, giải phóng từng địa phương, từng vùng, thành lập căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở cơ sở. Ủy ban nhân dân cách mạng, ủy ban giải phóng địa phương và ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam là những hình thức tổ chức quá độ rất thích hợp và có tác dụng lớn, cổ vũ nhân dân tự mình làm chủ vận mệnh của mình, bất chấp chính quyền phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai Nhật.
Ngày 13-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng Minh. Nắm bắt thời cơ, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và lệnh khởi nghĩa được ban ra kịp thời: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập cho nước nhà!… Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”.
Ngày 16-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc: a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính. b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy. c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”[8]. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”[9]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam nhất tề nổi dậy, cách mạng nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng lúc, đúng thời cơ, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành được thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”. Đó là một điển hình thành công về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đoán thời cơ, nhận định chính xác thời cơ; đồng thời, kiên quyết chớp thời cơ, phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Như vậy, vấn đề chọn thời cơ, nắm thời cơ và tranh thủ thời cơ tiến hành khởi nghĩa vũ trang đã được Đảng ta vận dụng như một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật chọn thời cơ mà cuộc khởi nghĩa nổ ra đúng lúc, làm cho quân địch bất ngờ, trở tay không kịp. Một câu hỏi đặt ra là: Tại sao ta không chọn thời cơ nổ ra cuộc tổng khởi nghĩa trong cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 khi Nhật vừa lật đổ Pháp? Là bởi vì, lực lượng so sánh của Nhật lúc này còn khá mạnh và chính quyền cách mạng chưa đủ điều kiện xác lập trong phạm vi cả nước, cho nên chủ trương lúc bấy giờ là khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền địa phương đó là chủ trương chiến lược đúng đắn trong thời điểm lịch sử này.
Còn nếu sau ngày 13-8-1945, tức là khi Nhật đầu hàng Đồng minh mà ta không nổi dậy tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước mà ngồi chờ quân Đồng minh vào giải phóng cho ta, thì sẽ phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc (Tưởng ở miền Bắc, Anh-Pháp ở miền Nam, Nhật chưa được giải giáp như quy định tại Hội nghị Poxdam). Do đó, khẳng định rằng, cuộc tổng khởi nghĩa đã khéo chọn đúng thời cơ giáng đòn quyết định, khéo đón đầu bước ngoặt lịch sử để phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang đầy chủ động và sáng tạo, biến các khả năng bất lợi thành có lợi.
Thật vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là đỉnh cao của một cuộc đọ sức chưa từng thấy, mà còn là cuộc đấu trí hết sức căng thẳng giữa ta và địch, diễn ra trorig một thời cơ lịch sử ngắn ngủi - chỉ có trên dưói mười lăm ngày đêm. Cho nên, vấn đề “ai thắng ai” trong trận quyết chiến này không phải chỉ là sức mạnh của vật chất, mà còn cả ở sức mạnh của tư duy và trí tuệ. Đây là cả một quá trình vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể, giữa nghệ thuật nắm thời cơ với quy luật phát triển khách quan của thời cơ. Trong thời điểm lịch sử quan trọng này, yêu cầu tuyệt đối cần thiết đối là phải nắm vững sự thay đổi nhanh chóng qua từng ngày, thậm chí qua từng giờ, tình hình so sánh lực lượng địch - ta, phân tích chính xác những diễn biến phức tạp của tình thế, dự đoán mau lẹ, kịp thời để có chủ trương đúng đắn và có đối sách hữu hiệu nhất. Do vậy, khi thời cơ đến, thì việc theo sát tình hình tương quan lực lượng địch - ta ở trong nước và-trên thế giới sẽ là căn cứ khách quan cho phép Đảng ta có thể dự đoán đúng các khả năng phát triển của tình hình để đưa ra những quyết định lịch sử.
Cách mạng Tháng Tám là trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất và là một trong những bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Thành quả Cách mạng tháng Tám là hiện thực, có giá trị vĩnh hằng, không thể phủ nhận, đây “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường; là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ”[10]. Với Cách mạng Tháng Tám, “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[11]. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc kỷ nguyên độc lập tự do tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cẩm Trang
[1] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H, t.7, tr 130.
[2] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H, t.7, tr 131.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tập 7, tr.118.
[4] Trường Chinh: Cách mạng dân tôc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. CTQG, H. Tập 1, tr. 294.
[5] Trường Chinh: Cách mạng dân tôc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. CTQG, H. Tập 1, tr. 295.
[6] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, tr 505-50.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tập 7, tr.367
[8] Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 7, tr. 425
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 596
[10] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.116.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.4, tr.3.