Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng, đạo đức, phong cách cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần rất quan trọng trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đó là sự kết tinh tư tưởng và hành vi đạo đức của Người, đồng thời gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói, cách làm việc.
Trong toàn bộ di sản tư tưởng, tinh thần mà Người để lại cho dân tộc, có nhiều tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu những sự kiện quan trọng, gắn với những bước ngoặt trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Trong số 30 bảo vật quốc gia (Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1426/QĐ-TTg, ngày 01-10-2012), thì có 5 tác phẩm tiêu biểu trong di sản của Người. Đó là: Cuốn Đường Kách mệnh; Tác phẩm thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù); Bản thảo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến; Bản thảo Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước; Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những tác phẩm đó tiêu biểu không chỉ trên phương diện tư tưởng mà còn trên phương diện đạo đức, đồng thời còn thể hiện đặc sắc về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh.
Tác phẩm Đường Kách mệnh hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, là một tác phẩm lý luận, cuốn sách tập hợp các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dùng để đào tạo cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1925-1927 ở Quảng Châu (Trung Quốc).
Tác phẩm Đường Kách mệnh, từ 1925- 1927 (Ảnh: Tư liệu)
|
Cuốn sách đã trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác - Lênin, phù hợp với điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng định tính phổ biến của các nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin trên phạm vi toàn cầu, không chỉ ở châu Âu mà còn cả ở phương Đông, châu Á. Là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, mang ý nghĩa của sự khởi thảo đầu tiên một Cương lĩnh chính trị dẫn dắt phong trào và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Mở đầu tác phẩm lý luận này, tác giả lại trước hết chú ý tới “Tư cách của một người cách mệnh”, tức là đặt vấn đề đạo đức, nhân cách lên hàng đầu.
Nhật ký trong tù (hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia), là tập thơ, gồm 133 bài thơ được viết bằng chữ Hán, là nhật ký bằng thơ, ra đời trong trong hoàn cảnh Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị giải đi khắp 13 huyện và hơn 30 nhà giam của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), bị đọa đầy đau khổ suốt 13 tháng (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943).
Tập thơ Nhật ký trong tù, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 (Ảnh: Tư liệu)
|
Với hơn một trăm bài thơ trong hơn một năm trời cay đắng, Tập thơ không chỉ miêu tả và ký sự đời sống trong tù mà người chiến sĩ phải chịu đựng mà còn như lời tố cáo đầy phẫn nộ đối với chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo trong xã hội đen tối Trung Quốc trước cách mạng mà nhiều bài trong Nhật ký trong tù còn thấm đẫm triết lý nhân sinh về đạo đức, về giáo dục và nghệ thuật. Hơn nữa, tập thơ còn toát lên khát vọng tự do va nghi lực phi thường vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt trong cảnh tù đày của chính tác giả về tương lai và tầm nhìn của nhà chiến lược, tỉnh táo va sáng suốt nắm bắt xu thế của lịch sử. Qua thơ của Người, ta vẫn thấy sức mạnh tự do của tư tưởng, bản lĩnh và ý chí gang thép của con người làm chủ tình thế và hoàn cảnh để chiến đấu và chiến thắng. Năm 1960, nhân kỷ niệm lần thứ 70 sinh nhật Người, Viện Văn học đã dịch tập thơ mới được ra tiếng Việt và sau đó được chuyển ngữ sang nhiều nước trên thế giới như Pháp, Nga, Anh, Tây Ban Nha, A Rập, Thụy Điển, Tiệp Khắc, Hàn Quốc, Nhật Bản...
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, (bản viết tay của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia). Ra đời ngày 19/12/1946, khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946 (Ảnh: Tư liệu)
|
Chỉ vẻn vẹn 197 chữ nhưng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một bản cương lĩnh kháng chiến súc tích với những nội dung hết sức quan trọng để định hướng và chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ra đời trong thời khắc cam go của lịch sử, hịch cứu nước của Hồ Chí Minh đã chạm tới điều sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, đó là lòng yêu nước và khát vọng tự do, đã thổi bùng lên ngọn lửa chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Với tinh thần: Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, trong cuộc chiến đấu mà kẻ thù buộc dân tộc Việt Nam phải bước vào, cuối cùng lại là nấm mồ chôn chủ nghĩa thực dân cũ và phế truất vai trò cường quốc quân sự của nước Pháp trên phạm vi toàn thế giới với một “Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, mang lại cho dân tộc Việt Nam và nhân dân trên thế giới niềm tin vào sức mạnh của lẽ phải và sự công bằng, cổ vũ con người hành động đúng đạo lý.
Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước (văn bản Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên đài Tiếng nói Việt Nam sáng ngày 17-7-1966, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh). Ra đời trong thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc, một lần nữa, trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam đã vang lên Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng văn phong hàm súc, giản dị và có tính hiệu triệu cao, Lời kêu gọi đã chạm tới điều sâu thẳm là tình yêu tổ quốc và khát vọng dâng hiến của mỗi người dân Việt Nam, đã khơi dậy lòng thiện và khát vọng hòa bình của nhân dân thế giới.
Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, ngày 17-7-1966 (Ảnh: Tư liệu)
|
Ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp thế hệ người Việt Nam lên đường chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Chân lý thời đại “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã trở thành nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục là kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân chung sức, đồng lòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bản Di chúc, (văn bản gốc Bác Hồ viết từ ngày 10-5-1965 đến ngày 19-5-1969, hiện lưu giữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng). Là tác phẩm cuối đời Người để lại cho dân tộc Việt Nam - một tài liệu quý giá, vừa chứa chan tình yêu thương với đồng bào vừa có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển của đất nước.
Di chúc được ghi lại những suy nghĩ, lời căn dặn của một người “chuẩn bị đi xa” đối với những thế hệ sau nên đó tất nhiên là những điều rất thực, rất tâm huyết. Chỉ gói gọn trong 1.000 từ mà Bác Hồ khiêm nhường gọi là một bức thư, là mấy lời nhắn gửi nhưng thực sự là một văn kiện vô giá, một đại tổng kết về cách mạng Việt Nam gắn bó mật thiết với cuộc đời, với sự nghiệp của Người. Là sự kết tinh tinh thần tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp suốt đời phấn đấu hi sinh vì nước vì dân; vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi; là những lời căn dặn thiết tha; là sức mạnh thôi thúc toàn dân tộc hành động trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là sự kết tinh lần cuối cùng toàn bộ tâm hồn, trí tuệ, ước muốn vì dân, vì nước của một con người đã nguyện hiến trọn đời mình cho dân tộc và cho nhân loại.
Bút tích bản Di chúc (Ảnh: Tư liệu)
|
Có thể nói, Quốc bảo Di chúc là một đại tổng kết lý luận, là máu thịt của cuộc đời, sự sống của Người, hòa chung trong số phận của dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong sự nghiệp ấy, Người là linh hồn, là nguồn sáng, là động lực mà cũng là niềm tin và tình yêu với lý tưởng, với Đảng, với dân, với nước và thế giới nhân loại. Đây là sự kết tinh những giá trị cốt lõi của tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh mà chúng ta cần học tập và làm theo.
Thiết thực kỷ niệm 132 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2021), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không chỉ thể hiện lòng tôn kính đối với vị lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, mà hơn lúc nào hết, mỗi chúng ta phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc những giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam. “Chúng ta sống trong thời đại vẻ vang thì phải sống cho xứng đáng”[1], học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải tập trung tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân, đặc biệt, “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị”[2], qua đó, chung sức đồng lòng, đoàn kết thực hiên thành công các mục tiêu chiến lược mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.8, tr. 44.
[2] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQG, sự thật, HN. 2021, Tập 1. Tr 183-184.