Nghệ thuật quân sự mở đầu kháng chiến toàn quốc (Kỷ niệm 75 năm ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 19/12/1946-19/12/2021)
Với ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ’, toàn thể dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên, anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc vào đêm ngày 19-12-1946.
Tiếng súng toàn quốc kháng chiến thể hiện sự tiếp nối truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, mở đầu thiên hùng ca bất diệt của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới thời đại Hồ Chí Minh.
Toàn quốc kháng chiến - cuộc tổng giao chiến đầu tiên, mở đầu cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam, diễn ra đồng loạt trên các đô thị Bắc vĩ tuyến 16, với sự hưởng ứng, phối hợp của quân và dân khắp mọi miền Tổ quốc, giành được những thắng lợi quan trọng, tạo tiền đề chuyển đất nước vào chiến tranh, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Sự kiện đó, thể hiện tài nghệ lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước hết, đó là nghệ thuật xác định rõ kẻ thù và phân hóa kẻ thù
Sự “nhân nhượng cuối cùng” để tránh một cuộc chiến tranh nổ ra đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, đó là từ Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) hòa hoãn và nhượng bộ với Pháp để đuổi 20 vạn quân Tưởng về nước, loại một kẻ thù có đường biên giới sát với nước ta mà không cần một cuộc chiến đến Tạm ước 14-9, ta tiếp tục nhượng bộ một số quyền lợi về kinh tế, văn hoá cho Pháp trong khi thế và lực của ta chưa mạnh. Bởi trước đó, Đảng ta đã xác định: “nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”[1].
Thực tế thì ngày 20-11-1946, quân Pháp chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, mở đầu kế hoạch lấn chiếm miền Bắc nước ta. Từ đầu tháng 12-1946 trở đi, tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn khi quân Pháp chiếm thêm Hải Dương, khiêu khích Hà Nội và nhiều nơi khác. Trước tình hình đó, không còn con đường nào khác, nhân dân ta đã giành quyền chủ động tổ chức chiến đấu chống kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp, với mục tiêu cứu nước giành độc lập dân tộc và phương pháp chiến tranh nhân dân theo phương châm: “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”.
Thứ hai, nghệ thuật lựa chọn thời cơ mở đầu cuộc kháng chiến
Sau thời gian hõa hoãn để xây dựng thực lực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chủ động tiến công kẻ thù, mở đầu toàn quốc kháng chiến, tạo thế chủ động bước vào cuộc chiến tranh tự vệ, đẩy Pháp vào thế bị động. Mở đầu toàn quốc kháng chiến bằng một cuộc tiến công đồng loạt ở các đô thị - nơi kẻ thù mạnh nhất là một thắng lợi to lớn. Thắng lợi to lớn hơn nữa là ta chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đồng thời còn giam chân chúng trong các đô thị, không cho chúng nhanh chóng mở rộng chiếm đóng ra các vùng nông thôn, ngoại thành. Thắng lợi đó góp phần làm tiêu tan mưu đồ đánh úp của quân Pháp, làm cho quân Pháp từ thế chủ động thành bị động, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng.
Bên cạnh đó, thành công trong mở đầu toàn quốc kháng chiến đã bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến, bảo toàn được chủ lực, tạo ra lợi thế và khoảng thời gian cần thiết cho đất nước triển khai thế trận chiến đấu trong thời chiến. Việc mở đầu toàn quốc kháng chiến đúng lúc, giành được thế chủ động, củng cố được niềm tin và quyết tâm kháng chiến cho toàn dân, toàn quân. Đây là sự thể hiện nghệ thuật tạo thế, tạo lực, chọn thời cơ và thời gian tiến hành chiến tranh. Sự quả cảm, bình tĩnh, mưu lược trước âm mưu thâm độc và sức mạnh của kẻ thù đã thể hiện bản lĩnh cầm lái của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, nghệ thuật xây dựng kế hoạch và điều hành tác chiến
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Chỉ huy quân sự các khu, ở các thành phố, thị xã khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến và triển khai công tác chuẩn bị theo kế hoạch. Các cơ quan, kho tàng lần lượt chuyển đến căn cứ, tổ chức cho nhân dân tản cư đến nơi an toàn. Các đơn vị bộ đội sẵn sàng chiến đấu, nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, các cơ quan Trung ương một mặt di chuyển về phía tây, tây nam Hà Nội, mặt khác cử các đội công tác lên Việt Bắc chuẩn bị căn cứ kháng chiến.
Theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chỉ huy chiến khu 11 (mặt trận Hà Nội) xây dựng phương án tác với chủ trương tác chiến là chủ động tập kích, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân Pháp, tập trung lực lượng đánh một vài vị trí, tổ chức các khu tác chiến dài ngày trong thành phố và tỏa ra các cửa ô; kết hợp trong ngoài cùng đánh. Các lực lượng giam chân địch càng lâu càng tốt; khi điều kiện thực hiện nhiệm vụ không còn nữa thì chủ động rút khỏi thành phố để bảo toàn và phát triển lực lượng, thực hiện kháng chiến lâu dài. Đây là kế hoạch tác chiến chiến lược trên quy mô cả nước, trong đó, mặt trận Hà Nội được coi là chiến trường chính.
Quán triệt quyết tâm của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ đạo các khu mở đợt tiến công vào vị trí đóng quân của Pháp từ phía Bắc vĩ tuyến 16 trở ra. Tiêu diệt một bộ phận quân địch ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Cầu Đuống, Hải Dương, Nam Định; cô lập địch ở Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng; chặn đánh, giam chân chúng một thời gian ở Hà Nội và một số thành phố, thị xã khác, tạo điều kiện chuyển cả nước vào cuộc chiến tranh. Sau đó, ta chủ động rút khỏi đô thị để bảo toàn chủ lực, kháng chiến lâu dài. Đối với chiến trường Nam Trung Bộ, Nam Bộ, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt địch ở đô thị và nông thôn.
Có thể nói, cuộc tiến công chiến lược mở đầu toàn quốc kháng chiến đã làm đảo lộn các kế hoạch của thực dân Pháp, buộc chúng bị động đối phó với các cuộc tiến công của ta ở nhiều nơi; âm mưu đánh úp nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang của ta ngay từ đầu đã thất bại.
Thứ tư, nghệ thuật sử dụng lực lượng
Với phương châm chiến lược là đánh lâu dài, vừa đánh vừa giữ gìn thực lực, bồi dưỡng và phát triển lực lượng của ta; vừa đánh vừa học cách đánh, chuyển yếu thành mạnh. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đây là cuộc kháng chiến lâu dài, trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công. Trong cuộc kháng chiến ấy, để giành được thắng lợi phải xây dựng được lực lượng vũ trang nhân dân hùng hậu, bao gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Ở mặt trận Hà Nội, lực lượng gồm năm tiểu đoàn Vệ quốc quân (191, 77, 145, 523, 56), mỗi tiểu đoàn tổ chức thành ba bộ phận: bộ đội phòng ngự, bộ đội tiến công và bộ đội dự bị, ngoài ra còn có trên 8.000 tự vệ và công an xung phong. Mặt trận Hải Dương và đường số 5 có Trung đoàn 44 của Chiến khu 3 cùng dân quân, tự vệ. Ở Bắc Ninh, Bắc Giang có Trung đoàn Bắc Bắc thuộc Chiến khu 12. Ở Nam Định có Trung đoàn 34 thuộc Chiến khu 2 và khoảng 1.000 dân quân tự vệ. Tại Đà Nẵng, có các Trung đoàn 93, 96 của Khu 5 cùng quân dân và tự vệ. Ở Huế, có Trung đoàn Trần Cao Vân và 2 Tiểu đoàn tiếp phòng, một số Đại đội độc lập và khoảng hơn 1.000 tự vệ thành[2].
Cùng với đó, ta mở mặt trận Tây Tiến với ba tiểu đoàn củaChiến khu 2 và Chiến khu 3 nhằm hướng Tây Bắc, tiến sang Sầm Nưa. Chiến khu 4 đưa một tiểu đoàn của Thanh Hóa sang Sầm Nưa và một tiểu đoàn của Nghệ An sang Xiêng Khoảng. Quân ta nhanh chóng giải phóng lưu vực sông Mã, Sầm Tố, tiến vào Sầm Nưa, mở ra vùng căn cứ kháng chiến rộng lớn cho lực lượng cách mạng Lào tiến hành kháng chiến lâu dài.
Thứ năm, vận dụng các hình thức chiến thuật, phương thức tác chiến
Trong cuộc kháng chiến, tùy thuộc vào tình hình cụ thể, từng trận đánh mà ta vận dụng các hình thức đánh phù hợp như: tập kích, phục kích địch, đồng thời thực hành các trận phòng ngự bảo vệ những vị trí quan trọng. Với cách đánh “trùng độc chiến”, đánh cả mặt trước và mặt sau lưng địch, khiến quân Pháp luôn bị phân tán.
Về hình thức, phương thức hoạt động tác chiến: du kích chiến vẫn là căn bản nhưng tìm mọi cơ hội để đánh vận động chiến, tiêu diệt địch; triển khai du kích khắp nơi, dùng binh lực lớn đánh vận động chiến nhưng không mạo hiểm; địa lôi chiến; phá hoại tiêu thổ đô thị nhỏ; đánh giao thông vận tải...Nhờ vận dụng sáng tạo hình thức chiến thuật trong từng trận đánh mà quân dân ta đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giam chân địch dài ngày trong thành phố, bảo toàn quân chủ lực, tạo điều kiện để cơ quan, kho tàng, công xưởng và nhân dân di chuyển an toàn lên khu căn cứ, tổ chức kháng chiến lâu dài.
Có thể khẳng định, việc chủ động mở đầu toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 thắng lợi gắn liền với sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là nghệ thuật toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt, đánh địch bằng mưu kế, kết hợp lực - thế - thời cơ để giành thắng lợi trên chiến trường. 75 năm trôi qua nhưng sự kiện mở đầu toàn quốc kháng chiến vẫn để lại những bài học kinh nghiệm quý giá, bài học đó không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị hiện thực sâu sắc để vận dụng, phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đó là bài học về lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng; về nghệ thuật tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; bài học về đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; nghệ thuật phân hóa kẻ thù; nghệ thuật tạo và nắm thời cơ; phương pháp tác chiến; nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng, các yếu tố đất nước, con người Việt Nam...
Cẩm Trang
[1] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, t.8, tr.133
[2] Toàn quốc kháng chiến ý chí bảo vệ độc lập, tự do và bài học lịch sử. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2016, tr.682