Những hạn chế và giải pháp trong việc bảo vệc quyền công dân, quyền con người trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Bên cạnh những ưu điểm, xét về mặt pháp lý, việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta vẫn còn một số hạn chế sau đây:
Hạn chế về mặt thể chế
Thứ nhất, các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa hoàn toàn tương thích với các quyền và tự do cơ bản của con người mà được ghi nhận và bảo vệ trong các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia. Việc Hiến pháp năm 2013 chưa ghi nhận một số quyền con người cơ bản như Luật nhân quốc tế (ví dụ: tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do chính kiến; quyền không bị bắt làm nô lệ và nô dịch; quyền không bị bỏ từ vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, …) hoặc ghi nhận nhưng chưa đầy đủ (chỉ đề cập đến một khía cạnh chứ chưa phải toàn bộ nội dung của quyền), có thể gây trở ngại trong việc bảo đảm đầy đủ và hiệu quả các quyền và tự do này trong thực tế, đặc biệt khi mà theo Luật Điều ước quốc tế năm 2016 của Việt Nam (Điều 6), Hiến pháp được xem là có giá trị cao hơn các điều ước quốc tế.
Thứ hai, mặc dù các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 đã được quy định rõ ràng và cụ thể hơn so với nhiều bản Hiến pháp trước, song vẫn còn một số quy định thiếu tính nhất quán (một số quy định sử dụng cụm từ “theo pháp luật”, một số lại sử dụng “do luật định”). Những vấn đề này cũng gây khó khăn cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền hiến định trong thực tế.
Thứ ba, việc quy định nguyên tắc về hạn chế quyền con người, quyền công dân ở khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. Tuy nhiên, do chưa phân biệt giữa quyền có thể bị hạn chế và quyền không thể bị hạn chế trong mọi trường hợp, nên quy định này có thể bị lạm dụng để vi phạm các quyền tuyệt đối. Thêm vào đó, các “trường hợp cần thiết” mà có thể được hạn chế quyền con người, quyền công dân nêu ở khoản 2 Điều 14 chưa thực sự phù hợp với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế khi quy định các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng có thể sử dụng cho mọi trường hợp. Điều này cũng tạo ra rủi ro về việc lạm dụng khoản 2 Điều 14 để hạn chế quyền con người, quyền công dân trong thực tế.
Thứ tư, liên quan đến trách nhiệm thực thi các nghĩa vụ về nhân quyền của nhà nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhà nước có đầy đủ các nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời bổ sung quy định cụ thể về nghĩa vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Chính phủ (khoản 6 Điều 96), tòa án nhân dân (khoản 3 Điều 102), viện kiểm sát nhân dân (khoản 6 Điều 96). Các thiết chế trung ương khác như Quốc hội, Chủ tịch nước, … tuy không có quy định trực tiếp, nhưng cũng có nghĩa vụ này xét từ các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, hiện tại chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương và địa phương. Điều này gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện và đánh giá mức độ thực thi các nghĩa vụ về nhân quyền của các cơ quan nhà nước.
Những hạn chế về mặt thiết chế
Một là, cơ chế bảo hiến đến nay vẫn chưa được hoàn thiện trong thực tế mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực được gần một thập niên. Trong khi đó, mô hình bảo hiến hiện nay đã cho thấy những hạn chế về hiệu quả, dẫn tới khó khăn trong việc xử lý những vi phạm Hiến pháp nói chung, vi phạm các quyền hiến định nói riêng.
Hai là, Hiến pháp năm 2013 chưa quy định thành lập một cơ quan quốc gia chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền theo như khuyến nghị của Liên hiệp quốc. Trong khi đó, cơ chế giám sát thực thi các quyền con người, quyền công dân chưa được thực sự đồng bộ và còn thiếu hiệu quả. Hiện tại, trong khi hoạt động thực thi quyền con người của các cơ quan hành pháp và tư pháp được giám sát bởi Quốc hội thì hoạt động thực thi quyền con người của Quốc hội lại chưa có cơ chế giám sát cụ thể.
Ba là, mặc dù Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh và đề cao chủ quyền của nhân dân, đồng thời xác định nhân dân và các tổ chức xã hội có vai trò và trách nhiệm tham gia quản lý nhà nước, bao gồm việc giám sát việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế cơ chế bảo đảm sự tham gia của nhân dân và các tổ chức xã hội vào việc giám sát việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân còn mang tính hình thức.
Bốn là, ở mọi quốc gia, tố tụng hình sự là lĩnh vực rủi ro nhất với quyền con người. Mặc dù các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật chuyên ngành về tố tụng hình sự của Việt Nam gần đây đã có nhiều đổi mới theo hướng bảo đảm các quyền con người trong lĩnh vực này, nhưng vẫn còn một số tồn tại do yếu tố lịch sử từ thời kỳ chiến tranh, bao cấp chưa được khắc phục triệt để. Tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử có lúc, có nơi chưa được tôn trọng đầy đủ. Quy trình, thủ tục tố tụng hình sự vẫn còn một số điểm chưa phù hợp, gây rủi ro với bị can, bị cáo. Chế độ giam giữ trong thực tế còn một số vấn đề chưa tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền.
Năm là, một số thiết chế mặc dù đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 nhưng chưa được vận dụng để phát huy vai trò, tiềm năng trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Ví dụ, theo Hiến pháp, Quốc hội có thể thành lập các ủy ban lâm thời để điều tra một vấn đề nào đó, bao gồm vấn đề vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, trong mấy thập kỷ gần đây, Quốc hội chưa từng thành lập một ủy ban nào như vậy, và cũng chưa có quy định cụ thể thế nào là những “vấn đề nhất định” làm cơ sở để Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất thành lập các ủy ban này và trình lên Quốc hội xem xét. Thêm vào đó, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các ủy ban lâm thời cũng chưa được quy định rõ ràng.
Quan điểm, giải pháp thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Quan điểm: Một nền pháp quyền không thể tồn tại trong một xã hội mà quyền con người, quyền công dân không được bảo vệ. Ngược lại, quyền con người, quyền công dân chỉ được bảo vệ trên thực tế khi xã hội được vận hành theo các nguyên tắc pháp quyền. Bản thân khái niệm pháp quyền hàm chứa cơ chế thực thi các quy định pháp luật về quyền con người, quyền công dân, biến chúng từ nguyên tắc thành hiện thực. Các nguyên tắc pháp quyền cũng đồng thời cung cấp những biện pháp khắc phục khi các quyền con người, quyền công dân bị vi phạm. Về vấn đề này, Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền đã từng nhấn mạnh, pháp quyền và nhân quyền giống như hai mặt của một đồng tiền, có quan hệ nội tại và không thể chia cắt. Theo đó, pháp quyền là những nguyên tắc hữu hiệu hướng các thành phần trong một xã hội và các xã hội khác nhau đạt đến thỏa thuận, là nền tảng để truyền bá văn hóa nhân quyền. Các nguyên tắc pháp quyền và tinh thần tôn trọng nhân quyền là hai yếu tố thống nhất, là chìa khóa giúp các quốc gia vượt qua mọi khó khăn. Dưới tinh thần của pháp quyền, mọi xung đột, mâu thuẫn trong xã hội cũng như những hành vi vi phạm nhân quyền đều được giải quyết bằng cách áp dụng các quy tắc khách quan, vô tư, dân chủ. Nguyên tắc pháp quyền cũng đòi hỏi chủ thể quyền lực phải chịu trách nhiệm, theo đó những hành vi vi phạm nhân quyền phải bị trừng phạt và những chủ thể bị xâm phạm nhân quyền phải được bồi thường thiệt hại một cách thích đáng.
Trải qua một quá trình nhận thức lâu dài, đặc biệt từ Đổi mới (1986), cho đến nay, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã xác định một cách chắc chắn mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và con đường hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tất yếu để đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Có thể khẳng định rằng, sẽ không thể xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền, cũng như không thể hội nhập quốc tế đầy đủ nếu coi nhẹ vấn đề tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Trong thực tế, kể từ Đổi mới đến nay, Việt nam đã có những bước tiến rất lớn, và đạt được những thành tựu không thể phủ nhận cả trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và bảo đảm nhân quyền. Tuy nhiên, bối cảnh cả trong và ngoài nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao hơn trong cả hai vấn đề này. Điều đó đòi hỏi phải có những nhận thức thấu đáo hơn về việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhưng trong nhận thức chung ở Việt Nam hiện nay, việc thúc đẩy sự tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân dường như chưa phải là vấn đề cấp thiết như một số vấn đề khác, cụ thể như phòng, chống tham nhũng và phát triển kinh tế. Vì vậy, mặc dù tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là những cụm từ thường xuyên được nhắc đến, song từ những phân tích ở các phần trên, có thể thấy có lúc, có nơi, vấn đề này chưa được chú trọng thực hiện một cách thực chất và toàn diện.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cần tiếp tục đổi mới tư duy để xem việc thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng bậc nhất ở nước ta hiện nay. Việc này không chỉ quyết định sự thành công trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, mà còn liên quan đến sự tồn vong của chế độ chính trị. Xét đến cùng, một chế độ chính trị có tồn tại bền vững hay không không chỉ phụ thuộc vào việc chế độ đó có kiểm soát được quyền lực và phòng, chống tham nhũng hiệu quả hay không, mà còn phụ thuộc vào việc chế độ đó có thực sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người hay không và đến mức độ nào. Liên quan đến sự phát triển kinh tế, kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy mức độ đòi hỏi về nhân quyền của người dân sẽ tăng lên ở mức tỷ lệ thuận so với mức độ cải thiện về mức sống, và vì vậy, việc chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế mà thiếu quan tâm đến việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người cũng tiềm ẩn những rủi ro về biến động xã hội.
Để đạt được mục tiêu tăng cường tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, cần xem xét và áp dụng một số giải pháp cả về thể chế và thiết chế như nêu ở mục dưới đây.
Giải pháp:
Giải pháp về thể chế:
Hoàn thiện các nguyên tắc Hiến định liên quan đến việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân
Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước: Kiểm soát quyền lực cần được nhìn nhận với tư cách vừa là nguyên tắc định hướng cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, qua đó phòng chống những hành động lạm quyền, tham nhũng, vừa là nền tảng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để nguyên tắc này phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, cần cụ thể hóa quy định cảu Hiến pháp năm 2013 về kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ trực tiếp của người dân, tạo lập cơ sở pháp lý minh bạch, dễ tiếp cận để nhân dân tham gia tích cực vào các công việc của Nhà nước, kiểm soát việc thực hiện quyền lực do nhân dân ủy quyền. Ngoài ra, cần thúc đẩy hơn nữa tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền thông qua việc đảm bảo các quyền hiến định về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình của công dân.
Nguyên tắc về tạm dừng/đình chỉ thực thi quyền: Theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013, quyền con người, quyền công dân có thể bị hạn chế trong các trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của pháp luật. Quy định này, như đã phân tích ở trên, mặc dù phản ánh cách tiếp cận chung của luật nhân quyền quốc tế, vì thế có ý nghĩa cả về nhận thức và thực tiễn, nhưng do nội dung quy định còn thiếu chặt chẽ nên có nguy cơ bị lạm dụng để tùy tiện hạn chế các quyền tuyệt đối, cũng như tùy tiện áp dụng các lý do cho việc hạn chế quyền. Vì vậy, cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn để xác định những quyền không thể bị giới hạn trong bất cứ trường hợp nào theo luật nhân quyền quốc tế (cụ thể như các quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay nhục hình; quyền không bị bắt làm nô lệ, nô dịch; quyền không bị tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng; quyền được suy đoán vô tội …). Thêm vào đó, để tránh những lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia có nguy cơ bị lạm dụng để giới hạn các quyền con người, việc áp dụng nguyên tắc tạm dừng thực thi quyền cần được giải thích trong các điều kiện cụ thể, trên cơ sở tuân thủ chung các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan tại Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR 1966), cụ thể là: (i) Áp dụng chỉ khi có “trường hợp khẩn cấp đe dọa đến cuộc sống của quốc gia”, như xung đột vũ trang, bất ổn dân sự và bạo lực, khủng bố hoặc thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng, như lũ lụt hoặc động đất lớn; (ii) Việc áp dụng không mâu thuẫn với các nghĩa vụ khác theo luật quốc tế; (iii) Các quyền bị tạm dừng/đình chỉ thực thi được quy định nghiêm ngặt tương ứng với tình huống khẩn cấp; (iv) Việc áp dụng không vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử dựa trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.
Hoàn thiện hệ thống các quyền hiến định
Hệ thống các quyền con người, quyền công dân được hiến định cần tiếp tục được sửa đổi theo hướng bảo đảm sự tương thích đầy đủ với các nguyên tắc, tiêu chuẩn pháp luật quốc tế về quyền con người, cụ thể:
- Về chủ thể quyền: một số quyền và tự do trong quy định chỉ đề cập đến chủ thể “công dân”, bao gồm: tự do đi lại, cư trú (Điều 23); tự do biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình (Điều 25); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); quyền được quyết định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ (Điều 42) … Việc xác định chủ thể quyền chỉ là công dân với những quyền và tự do này là chưa phù hợp với luật nhân quyền quốc tế (ví dụ, đối với quyền tự do đi lại, cư trú, Điều 12, ICCPR quy định: “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó”).
- Bổ sung thêm một số quyền, tự do cơ bản: Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa ghi nhận một số quyền và tự do quan trọng quy định trong hai công ước ICCPR và ICESCR mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể là các quyền: quyền không bị bắt làm nô dịch (ICCPR: Điều 8); quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (ICCPR: Điều 11); quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi (ICCPR: Điều 16); quyền đình công (ICECSR: Điều 8.1); quyền thành lập, gia nhập công đoàn (ICCPR: Điều 22, ICECSR: Điều 8.1), tự do tư tưởng (ICCPR: Điều 18.1); quyền được giữ quan điểm riêng mà không bị can thiệp (ICCPR: Điều 19.1). Mặc dù một số quyền này đã được luật định (ghi nhận trong một số luật chuyên ngành), song do tính chất quan trọng của chúng, việc hiến định vẫn là cần thiết.
Bên cạnh đó, liên quan đến các quyền nhóm, Hiến pháp cũng nên bổ sung quy định về quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương, trên cơ sở phù hợp với xu hướng trên thế giới và sự phát triển của luật nhân quyền quốc tế trong việc đặt ra những yêu cầu với việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người của ngày càng nhiều nhóm xã hội mới, trên tinh thần bình đẳng và giá trị phổ quát của nhân quyền. Trong đó, cần dành sự quan tâm tới việc bảo vệ quyền của các nhóm dễ bị tổn thương theo khuyến nghị trong kỳ UPR chu kỳ 3, 2019, bao gồm các nhóm: phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số, người lao động di trú, LGBT, …
Hoàn thiện các quy định về giải thích Hiến pháp
Hiện tại ở Việt Nam, thẩm quyền giải thích Hiến pháp được giao cho Ủy ban Thương vụ Quốc hội (khoản 2 Điều 74 Hiến pháp 2013), song Ủy ban rất ít khi thực hiện thẩm quyền đó của mình. Hậu quả là có khá nhiều quy định của Hiến pháp, trong đó bao gồm các quy định về quyền con người, quyền công dân, hiện có cách hiểu khác nhau hoặc chưa thống nhất về một số nội hàm, ví dụ như về nguyên tắc tạm dừng /đình chỉ thực thi quyền ở khaonr 2 Điều 14; về nguyên tắc “quyền không tách rời nghĩa vụ” ở Điều 15, …
Giải thích Hiến pháp góp phần đảm bảo việc thực thi Hiến pháp nói chung và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân nói riêng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Do vậy, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải thích pháp luật là việc làm cần thiết. Một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc giải thích Hiến pháp, đặc biệt là giải thích các nội dung thuộc chế định quyền con người, quyền công dân đó là mở rộng thẩm quyền giải thích Hiến pháp. Việc trao thẩm quyền này cho tòa án sẽ có ý nghĩa thiết thực trong các trường hợp có khiếu nại của cá nhân đối với những quyết định của cơ quan nhà nước có khả năng vi hiến, xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân. Bên cạnh đó, tòa án, với tư cách là cơ quan xét xử, luôn phải đảm bảo tính khách quan trong mọi hoạt động của mình, đây sẽ là tiền đề bảo đảm cho hoạt động giải thích Hiến pháp được tiến hành một cách công bằng, khách quan. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ giải thích các quy định chung của Hiến pháp, còn tòa án sẽ giải thích các quy định cụ thể gắn với quá trình xét xử.
Hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm nhân quyền của các cơ quan nhà nước
Như đã phân tích ở phần trên, nhà nước pháp quyền đòi hỏi áp đặt nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền con người, quyền công dân với mọi cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện hoặc đánh giá thực hiện nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, cần cụ thể hóa các nghĩa vụ, cơ chế tổ chức thực hiện, và tiêu chí đánh giá thực hiện nghĩa vụ về nhân quyền của các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương. Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành để quy định cụ thể nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quant rung ương như Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng Bầu cử quốc gia. Thêm vào đó, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành để xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể công quyền khác trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó đặc biệt là Chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, … Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu xây dựng các bộ tiêu chí tương ứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của từng chủ thể công quyền để sử dụng làm cơ sở cho hoạt động giám sát, đánh giá việc tuân thủ, thực hiện quyền con người, quyền công dân của từng chủ thể.
Các giải pháp về thể chế
Thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia
Như đã đề cập, thực tiễn trên thế giới cho thấy thiết chế này là một bộ phận không thể thiếu trong cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở các quốc gia. Nhà nước Việt Nam đã có những cam kết về thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia khi vận động để được bầu là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, bởi vậy, việc thành lập thiết chế này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là cần thiết và phù hợp.
Thành lập cơ quan bảo hiến
Hiện nay ở Việt Nam, cơ chế bảo vệ Hiến pháp vẫn theo mô hình nghị viện – một mô hình có tính hình thức cao nên chỉ có một số quốc gia áp dụng. Vì vậy, cần nghiên cứu xây dựng một cơ chế bảo hiến mới, hiệu quả hơn nhưng vẫn phù hợp với bối cảnh chính trị đặc thù của đất nước. Điều này cũng là để thực hiện Điều 119 (khoản 2) Hiến pháp năm 2013, trong đó nêu rằng: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.
Hoàn thiện pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự
Như đã đề cập, ở mọi quốc gia, tố tụng hình sự là lĩnh vực rủi ro nhất với quyền con người và hiện tại xét cả về pháp luật và thực tế ở Việt Nam, vẫn còn một số hạn chế trong vấn đề này. Vì vậy, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến việc tiếp tục hoàn thiện, củng cố các thiết chế, thể chế để bảo vệ hiệu quả quyền con người trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Trong vấn đề này, nên tham khảo những hướng dẫn và áp dụng hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế do các cơ quan nhân quyền của Liên hợp quốc ban hành, mà hiện đã rất toàn diện và cụ thể.
Thúc đẩy thiết chế tư pháp dân sự
Như đã đề cập, một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền là phải có một thiết chế tư pháp hoàn thiện, bao gồm tư pháp hình sự và tư pháp dân sự, để cho phép công dân có thể tiếp cận công lý một cách thuận lợi và công bằng.
Xét về các thiết chế tư pháp dân sự, mặc dù hiện tại Việt Nam đã có cơ chế hòa giải cơ sở và trọng tài thương mại, song vai trò của các cơ chế này chưa được nhìn nhận đúng mức, hiệu quả hoạt động trong thực tế chưa cao, chưa đóng góp đáng kể vào việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, trong thời gian tới, nhà nước nên nghiên cứu thúc đẩy các thiết chế tư pháp dân sự theo hướng mở rộng áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự mà người dân có thể sử dụng để thay thế khiếu kiện tư pháp, cụ thể như trọng tài, hòa giải, đàm phán ...
Mở rộng tiếp cận với các thiết chế quốc tế về nhân quyền
Luật nhân quyền quốc tế quy định nhiều cơ chế cho phép công dân của các quốc gia có thể khiếu nại với các cơ quan nhân quyền của Liên hợp quốc, cụ thể là Hội đồng Nhân quyền và các ủy ban giám sát một số công ước quốc tế về nhân quyền, sau khi đã vận dụng các cơ chế trong nước mà cảm thấy khiếu nại của mình chưa được giải quyết thỏa đáng. Đối với việc khiếu nại lên các ủy ban giám sát một số công ước quốc tế về nhân quyền, điều kiện đầu tiên là cần có sự chấp thuận của quốc gia có liên quan với thẩm quyền tiếp cận và xử lý khiếu nại của ủy ban.
Hiện tại, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước cốt lõi về nhân quyền của liên hợp quốc mà có quy định về ủy ban giám sát, song chưa thừa nhận thẩm quyền của bất kỳ ủy ban nào trong việc tiếp nhận và xử lý khiếu nại về việc bị vi phạm nhân quyền của công dân Việt Nam. Việc này phần nào làm giảm uy tín quốc tế của Việt Nam trong vấn đề nhân quyền và làm hạn chế hiệu quả bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền, bởi thực tế cho thấy không phải khi nào các thiết chế trong nước đã giải quyết các khiếu nại bị vi phạm nhân quyền của công dân một cách thỏa đáng.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, có thể nghiên cứu khả năng chấp nhận thẩm quyền của ủy ban giám sát một số công ước quốc tế về nhân quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật … để giải quyết hạn chế nêu trên. Việc mở rộng tiếp cận với các thiết chế quốc tế về nhân quyền đã nêu không ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hay trật tự xã hội vì quyền của các nhóm xã hội này không phải là vấn đề nhạy cảm.
Thủy Tiên tổng hợp