Quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng (Kỷ niệm 78 năm thành lập QĐND Việt Nam 22/12/1944 – 22/12/2022)
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự.
Bởi vậy, ngay từ buổi đầu thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng hết lòng xây dựng quân đội ta thành một quân đội kiểu mới, một quân đội nhân dân, luôn tuân theo những định hướng chính trị của Đảng, kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc được ghi rõ trong Cương lĩnh chính trị và các Nghị quyết của Đảng.
.jpg)
Từ hình ảnh các anh chiến sĩ Tuyên truyền giải phóng quân thời kỳ trước cách mạng, anh Vệ quốc quân trong những năm kháng chiến chống Pháp, anh Giải phóng quân của tiền tuyến lớn miền Nam chống Mỹ và những chiến sĩ quân đội với bề dày truyền thống và hiện đại hôm nay (Ảnh: Internet)
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo, giáo dục mang tính chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Điều đó được thể hiện trong cuộc chiến đấu lâu dài của Quân đội nhân dân theo đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến và quan điểm xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”[1].
Tại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta (Luận cương chính trị, tháng 10/1930). Đảng ta đã khẳng định “con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc phải tổ chức ra quân đội công nông để giành chính quyền và giữ chính quyền”. Vì vậy, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các tổ chức vũ trang như: Đội tự vệ công nông: đây là tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên của Đảng ta, là tên gọi chung của các đội tự vệ ra đời ở Nghệ Tĩnh và một số địa phương trong cao trào cách mạng 1930-1931, do yêu cầu bảo vệ quần chúng trong các cuộc đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị. Quân du kích Nam Kỳ: là tên gọi chung các đội vũ trang (du kích tự vệ) ra đời trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, tháng 11/1940. Các đội du kích tự vệ do các đảng bộ địa phương lập ra trong khi chuẩn bị khởi nghĩa, trên cơ sở các tổ chức quần chúng. Hình thức tổ chức từ tổ đến trung đội. Đội du kích Bắc Sơn: ra đời trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (Lạng Sơn) năm 1940. Đội vũ trang Cao Bằng: thành lập cuối năm 1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng) theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đội Du kích Ba Tơ: Ra đời trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) tháng 3/1945.
Trên cơ sở của thực tiễn của các phong trào cách mạng, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân có chi bộ Đảng lãnh đạo. Trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tuy lúc đầu, quy mô nó còn nhỏ nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”[2]. Và điều đó đã trở thành sự thật khi lực lượng vũ trang ấy đã cùng toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến, lập nên nước công nông đầu tiên ở nước ta và Đông Nam Á.
Là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Quân đội ta đã cùng với nhân dân chiến đấu với tinh thần “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Quân đội cách mạng non trẻ đã đánh thắng đội quân thiện chiến của đế quốc, thực dân cũ, kết thúc thắng lợi cuộc chiến 3000 ngày bằng chiến thắng lẫy lừng ở Điện Biên Phủ năm 1954.
Với tư tưởng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự kết hợp đấu tranh chính trị với sự nổi dậy của quần chúng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đập tan huyền thoại “sức mạnh không tưởng tượng nổi” của quân đội Hoa Kỳ trên hai thập kỷ, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên khắp cả nước.
Không chỉ chiến đấu giải phóng dân tộc mình, với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”, Quân đội ta còn sát cánh cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Lào, Campuchia chống kẻ thù chung. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa kết thúc thắng lợi, Quân đội ta lại bước vào cuộc chiến đấu ác liệt để bảo vệ biên giới và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, để lại hình ảnh tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân nước bạn.
Có thể thấy, từ hình ảnh các anh chiến sĩ Tuyên truyền giải phóng quân thời kỳ trước cách mạng, anh Vệ quốc quân trong những năm kháng chiến chống Pháp, anh Giải phóng quân của tiền tuyến lớn miền Nam chống Mỹ và những chiến sĩ quân đội với bề dày truyền thống và hiện đại hôm nay. Đó là hình ảnh người chiến sĩ quân đội trung với nước, hiếu với dân; lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít đánh nhiều; quyết chiến, quyết thắng; trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Nhân dân, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh; gắn bó máu thịt với Nhân dân, hi sinh chiến đấu hết mình vì hạnh phúc của Nhân dân.
Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ hoàn thành và thực hiện xuất sắc chức năng là quân đội chiến đấu, mà còn làm tốt chức năng là quân đội công tác, quân đội sản xuất, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế, xã hội. Có thể nói, một quân đội cách mạng với ba chức năng là chiến đấu, công tác, sản xuất thực sự đã phản ánh bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta “Dựng nước đi đôi với giữ nước”, “Giữ nước từ khi nước chưa nguy”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục khẳng định quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó chính là sự đoàn kết toàn dân, lấy ý chí của nhân dân làm thành trì vững chắc để bảo vệ Tổ quốc là bài học mà cha ông ta đã từng đúc kết trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa mở ra cho đất nước nhiều vận hội lớn đi liền với những thách thức đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần, sâu sắc hơn nữa những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng, xứng đáng là “lực lượng trụ cột”.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặt trọn niềm tin yêu vào quân đội nnhana dân Việt Nam, vào sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân. Dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị cũng luôn chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, theo đó giai đoạn hiện nay, phải: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo”[3] như Đại hội XIII đã xác định.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H. 2011, Tập 11, tr.350.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H. 2011, Tập 3,tr.508.
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H.2021, tập I, tr.157-158