Quảng trực trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
Quảng Trực là một xã biên giới, nằm ở phía Nam huyện Tuy Đức, tổng diện tích tự nhiên của xã khoảng 55.908ha; dân số hiện nay trên 8.100 người.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xã Quảng Trực được xác định là khu vực địa chính trị, quân sự quan trọng, đảm bảo an toàn cho xây dựng lực lượng kháng chiến, nhất là an toàn cho việc xây dựng lực lượng bảo vệ tuyến Hành lang chiến lược tiếp tế Bắc - Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông đến miền Đông Nam bộ, là nơi khẳng định vai trò của Nhân dân trong xây dựng, giữ bí mật căn cứ ATK, phát triển phong trào cho cách mạng của địa bàn Nam Tây Nguyên nói riêng, chiến trường miền Nam nói chung, góp phần to lớn vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Tất cả cho tiền tuyến – Hình ảnh sưu tầm
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Tây Nguyên, cư dân bản địa sinh sống chủ yếu trên địa bàn Quảng Trực là đồng bào M'Nông. Đồng bào M’Nông có tinh thần ý thức độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước rất cao, có tính cố kết cộng đồng chặt chẽ, họ là lực lượng quan trọng trong các phong trào chống thực dân, đế quốc xâm lược.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, từng bước bình định các vùng đất của Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp mới bình định được các tỉnh ở đồng bằng và bắt đầu tiến quân xâm lược các cao nguyên, miền núi. Mặc dù vậy, vùng đất Nam Tây Nguyên, trong đó có Quảng Trực, vẫn là vùng đất mà thực dân Pháp chưa kiểm soát được và chúng gọi đây “vùng không khuất phục”.
Trước sự bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, đồng bào các dân tộc ở Quảng Trực cùng với Nhân dân Tây Nguyên đã anh dũng đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp, mở đầu là các cuộc cuộc khởi nghĩa Oi H'Mai ở thung lũng Krông H'Năng; Phong trào đấu tranh của người Bih ở vùng hạ lưu sông Krông Ana do Nơ Trang Gưh lãnh đạo (1900 - 1913)... Trong thời gian nghĩa quân ẩn náu ở khu vực Đắk Huýt, đồng bào xã Quảng Trực đã che giấu và đóng góp người, sức của cho nghĩa quân, giúp nghĩa quân sớm khôi phục lại sức mạnh để đánh giặc tiêu biểu là phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp do N’Trang Lơng lãnh đạo kéo dài ¼ thế kỷ, từ 1912 - 1936, trong đó có sự hưởng ứng và tham gia của đồng bào M’Nông thuộc địa bàn Quảng trực, Tuy Đức ngày nay.
Các cuộc đấu tranh của đồng bào M'Nông nói chung xã Quảng Trực nói riêng trong phong trào chống Pháp do N'Trang Lơng lãnh đạo tuy không giành được thắng lợi trọn vẹn, nhưng đã nói lên tinh thần quật khởi và khả năng to lớn của đồng bào các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược trước khi có Đảng lãnh đạo, góp phần vào trang sử vẻ vang chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam.
Ngày 20/8/1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Chi bộ Đảng người M’Nông, Êđê, Gia Rai và từ các địa phương đã nô nức tham gia vào cuộc biểu tình lớn lật đổ chính quyền thực dân trong đó có địa bàn Quảng Trực, Tuy Đức thoát khỏi ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp và trở thành công dân của nước Việt Nam độc lập. Cuối năm 1945, Pháp đánh chiếm Tây Nguyên, trong đó có địa bàn Quảng Trực; ngày 19/12/1946, đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, Nhân dân các dân tộc trên địa bàn Quảng Trực, Tuy Đức đã tích cực đấu tranh, từng bước kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp. Chính đây là cơ sở quan trọng, vững chắc để Nhân dân trên địa bàn Quảng Trực, Tuy Đức cùng với quân dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.
Sau khi ký Hiệp định Giơnevơ (1954), nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời và hai năm sau sẽ tổ chức Hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Lúc này, địa bàn Quảng Trực Tuy Đức nằm trong vùng kiểm soát của Mỹ - Diệm, vì vậy chính quyền Ngô Đình Diệm đã cho phục hồi lại bộ máy hành chính và các tổ chức tề điệp; tiếp tục chế độ chánh tổng, chủ bon và dựa vào bọn tề nguỵ người tại chỗ để nắm và đàn áp nhân dân. Chúng tuyên truyền mị dân như cấp phát chăn màn, gạo muối, thuốc men để mua chuộc đồng bào và ca ngợi chế độ Diệm...
Trước tình hình đó, ta chủ trương vận động Nhân dân đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, tẩy chay trò hề "trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại" của Diệm. Tháng 7/1956, chính quyền Diệm tiến hành càn quét, trà trộn, lùng sục khắp các thôn buôn để dò la, tìm dấu vết cơ sở cách mạng. Chúng thành lập các đồn Trương Tấn Bửu, Bu Prăng để kiểm soát chặt chẽ khu vực ba biên giới. Năm 1959 chúng thành lập tỉnh Quảng Đức. Chính quyền Mỹ - Diệm ban hành Luật số 10/1959 (ngày 06/5/1959), lê máy chém đi khắp miền Nam, đàn áp, khủng bố dã man phong trào cách mạng miền Nam.
Năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ 15, xác định đường lối cách mạng ở miền Nam là dùng bạo lực cách mạng đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai. Nghị quyết 15 của Đảng ra đời, mở đường cho phong trào đấu tranh cách mạng bùng lên quyết liệt trên toàn miền Nam, trong đó có địa bàn Quảng trực, Tuy Đức ngày nay.
Năm 1959, Ban cán sự tỉnh Đắk Lắk triển khai xây dựng căn cứ địa cách mạng, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang, dự trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men... chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho việc chuyển phong trào cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng cách mạng sang thế tiến công địch. Đặc biệt là công tác xoi mở đường, khai thông tuyến hành lang chiến lược đoạn Nam Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Ngày 25/5/1959, trên cơ sở Đoàn 559, Bộ Quốc phòng và Ban Thống nhất Trung ương tổ chức thành lập Đoàn B90 để thực hiện nhiệm vụ xoi mở đường, xây dựng hành lang chiến lược nối liền hai chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Cuối năm 1960, lần đầu tiên Ban cán sự B4 cử đồng chí Phùng Đình Ấm và Nguyễn Đình Kính cùng 4 đồng chí từ Đông Nam Bộ sang Kiến Đức tiếp nhận và đưa đoàn cán bộ quân sự do các đồng chí Tăng Thiên Kim, Ba Nghiêm phụ trách về đến căn cứ "Nửa Lon" của tỉnh Phước Long. Đây là đoàn cán bộ quân sự đầu tiên của Trung ương chi viện cho Nam Bộ đi qua địa bàn Quảng Trực, Tuy Đức. Tháng 12/1960, Trung ương Đảng quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức với 4 huyện (mật danh là K) gồm: K2 (Đức Lập), K4 (Đức Xuyên), K6 (Khiêm Đức), K8 (Kiến Đức) Quảng trực, Tuy Đức ngày nay thuộc K8.
Sau khi tuyến hành lang chiến lược được khai thông, Ban cán sự tỉnh Quảng Đức đã tổ chức một đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên tại Quảng Trực, Tuy Đức để hoạt động móc nối gây dựng cơ sở ở cách mạng trong các buôn đồng bào dân tộc M'Nông. Nhờ vậy, ta đã củng cố Bu – Rơ - Nga thành căn cứ của đội vũ trang tuyên truyền và xây dựng Bu-Đik-Dên thành một trạm hành lang quan trọng trên địa bàn Kiến Đức. Thiếu tướng Phùng Đình Ấm nguyên Bí thư Huyện ủy K5, Phó Đoàn B90; Trung tướng Hoàng Câm - Nguyễn Tư lệnh Đoàn 95 và nhiều đồng chí lãnh đạo khác đã trực tiếp ở đây để lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh chính trị, vũ trang trên địa bàn tỉnh.
Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng niềm Nam Việt Nam ra đời, trở thành ngọn cờ đoàn kết các tầng lớp nhân dân yêu nước đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Tháng 02/1961, Đại hội dân tộc huyện Kiến Đức lần thứ nhất được tổ chức với hơn 100 đại biểu đồng bào ở các buôn, làng trong huyện. Các đại biểu nhiệt liệt hưởng ứng việc thành lập Mặt trận N’Trang Lơng, bầu ra Ban Chấp hành Mặt trận N’Trang Lơng do ông Bớ Đơm Bơ Ri làm Chủ tịch. Đây là một sự kiện có ý nghĩa đối với nhân dân các dân tộc xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức (ngày nay).
Thực hiện nghị quyết của Đại hội dân tộc huyện Kiến Đức cùng với sự lãnh đạo của Mặt trận N’Trang Lơng, nhiều con em đồng bào dân tộc của xã Quảng Trực đã tham gia du kích và lực lượng vũ trang tuyên truyền để phá hoại cuộc bầu cử Tổng thống của chính quyền tay sai, thân Mỹ. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, đỉnh cao là giai đoạn từ năm 1961 nhân dân và lực lượng vũ trang xã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang, vận động Nhân dân phá hoại bầu cử của địch, tập kích vào các cuộc tuần tra, tập kích đánh đồn, bốt, phá vỡ âm mưu ấp chiến lược của kẻ địch.
Ngày 06/4/1961, lực lượng vũ trang và nhân dân xã Kiến Trực phối hợp với đội vũ trang tuyên truyền huyện Kiến Đức chia làm 2 cánh: Cánh thứ nhất do đồng chí Phùng Đình Ấm chỉ huy đột nhập vào Tuy Đức phá hoại hoạt động bầu cử của địch, cuộc tập kích không thành, đồng chí Thanh - Tiểu đội phó hy sinh, đồng chí Phùng Đình Ấm bị thương nhẹ; cánh thứ hai do đồng chí Bảy Ta (Lê Văn Tây) chỉ huy phối hợp với du kích Bu-Rơ-Nga đột nhập khu tập trung gom dân của dịch ở Bon Bu Sóp (gần đồn Trương Tấn Bửu) phát động đồng bào đốt bỏ khu tập trung, mang tài sản trở về quê cũ làm ăn. Đội còn tổ chức các già làng kéo lên đấu tranh với địch, tên đại diện xã hoảng sợ phải nhượng bộ để quần chúng trở về bon cũ. Thừa thắng ta đột nhập vào Sở Trà (xã Quảng Trực) tên chủ người Pháp là Mô-rít-Sô hứa không dám chống lại cách mạng và sẵn sàng ủng hộ mặt trận giải phóng.
Đêm 20/11/1962, lực lượng du kích và nhân dân xã Kiến Trực dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Bu-Rơ-Nga đã phối hợp với bộ đội chủ lực của Trung đoàn 2 tổ chức đánh đồn bảo an BuPrăng (tức là đồn Krông-N'dong) là vị trí quan trọng của địch án ngữ khu vực ngã ba biên giới, do một trung đội địch chốt giữ. Ta hạ quyết tâm tiêu diệt cho được vị trí này và kết quả đã chiếm được đồn, bắt sống tên Trung úy đồn trưởng và một số tù binh, diệt 28 tên, làm bị thương 2 tên, thu nhiều vũ khí các loại. Trận đánh đã tạo được tiếng vang lớn, khiến cho bọn ngụy quân, ngụy quyền ở Kiến Đức hoang mang lo sợ.
Ngày 15/11/1965, lực lượng vũ trang xã Kiến Trực cùng với lực lượng bộ đội chủ lực, tổ chức tấn công hang loạt các đồn bốt của địch trên địa bàn xã, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch, bắn cháy 01 xe GMC và 1 xe Jeep, thu nhiều vũ khí cùng chiến lợi phẩm.
Tháng 4/1967, du kích xã kết hợp với quân chủ lực đánh đồn Năm Sao và đánh chặn xe địch tiếp tế chở quân vào Đồn. Trong trận đánh này, chúng ta đã tiêu diệt được gần 1 tiểu đội, bắt sống 18 tên (3 tên Mỹ), phá hủy 2 xe tăng, 4 xe Jeep, thu 50 khẩu súng các loại, trong đó có 5 khẩu M79...
Tháng 12/1968, du kích xã kết hợp với Tỉnh đội tiếp tục đánh đồn Năm Sao và Đồn BuPrăng, ta tiếp tục giành thắng lợi lớn, tiêu diệt được 1 đại đội, bắt sống 8 tên (1 tên Mỹ), phá hủy 4 chiếc xe tăng, 2 xe Jeep, thu 2 khẩu pháo và 60 khẩu súng các loại, trong đó có 8 khẩu M79,
Tháng 4/1969, du kích xã kết hợp với Tỉnh đội tiếp tục đánh đồn BuPrăng. đồng thời phục kích xe tiếp tế của địch. Vì bị phục kích địch đã sử dụng trực thăng để chi viện. Trong trận đánh này, ta tiêu diệt được hơn 1 tiểu đội, bắt sống 11 tên, bắn rơi 1 chiếc trực thăng, 6 khẩu pháo và thu 95 khẩu súng các loại. Tháng 10/1969, Quân dân xã Quảng Trực đã phối hợp với bộ đội chủ lực - B3 và huyện Kiến Đức hăng hái tham gia dân công hỏa tuyến vận chuyển lương thực, vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch BuPrăng - Đức Lập; sau 4 ngày đêm chiến đấu anh dũng, ta đã tiêu diệt cứ điểm Ka Te, diệt gần 200 tên địch; chặn đánh một đoàn xe địch từ Buôn Ma Thuột xuống tăng viện.
Ngày 20/12/1969, du kích xã kết hợp với Tỉnh đội đánh đòn quyết định tại 3 tiểu đoàn quân chư hầu của Mỹ (Gồm đồn Năm sao, đồn BuPrăng và Chốt- Kung-Dô). Trong trận đánh này, chúng ta đã tiêu diệt được trên 1 tiểu đoàn, bắt sống 15 tên (2 tên Mỹ), bắn rơi 4 trực thăng, 2 chiếc F5a, 10 xe tăng, 8 khẩu pháo và thu 110 khẩu súng các loại. Địch thất bại hoàn toàn, rút quân về Bù Boong, địa bàn xã Quảng Trực đã được giải phóng, đây là khu vực đầu tiên trên địa bàn Nam Tây nguyên do ta làm chủ, nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền và quân đội Ngụy.
Những đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền, quân đội, như: Đồng chí Phùng Đình Âm, Bảy Ta, Phạm Văn Phận, Trần Thị Thảo, Hoàng Cầm đã từng được nhân dân các bon, làng xã Quảng Trực nuôi dưỡng, che dấu, bảo vệ, góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng và giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng địa bàn tỉnh Quảng Đức và Nam Tây nguyên.
Ngày 01/4/1973, được sự ủng hộ của Quân ủy Trung ương, chỉ sau 3 tháng Mỹ ký hiệp định Pari, bộ đội Trường Sơn đã phát động ra quân xây dựng cầu đường, xây dựng đường ống xăng dầu đồng thời đảm bảo hệ thống thông tin trên tuyến với quyết tâm tháng 4/1974 thông tuyến bắt đầu từ Chà Lý vượt qua sông Sê Băng Hiêng (thuộc Vĩnh Linh) qua Hướng Hóa (Quảng Trị), A Lưới (Thừa Thiên Huế), Khâm Đức (Quảng Nam), Plây Khốc, Sa Thầy, Pô Cô, Thăng Đức, Sêrêpốc, Đăk Đam, Burrăng (Tây Nguyên) kéo xuống Bù Gia Mập (miền Đông Nam Bộ) với chiều dài 1.200 km. Quán triệt nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Tư lệnh Trường Sơn tập trung xây dựng chấn chỉnh lại tổ chức và chủ động phối hợp với các ngành giao thông vận tải của Nhà nước, các địa phương, phát triển bến bãi, kho hàng đến cuối năm 1973, trên tuyến vận tải phía Bắc, hầu hết các kho đều được bố trí, sắp xếp lại. Tháng 9/1973, Đoàn 95 gồm có các trung đoàn trực thuộc được Nhân dân che chở, đã hành quân từ Miền đông Nam bộ đến đóng quân tại xã Quảng Trực (khu vực đồi chè và chốt Trương Tấn Bửu) phía trên là đồn với thời gian 2 tháng (từ tháng 9 đến tháng 11/1973) để củng cố lực lượng tổ chức chiến đấu tiêu diệt các cử điểm dịch ở Đắk Song, Đức Lập, Tuy Đức, Bù Boong mở rộng vùng an toàn, giải phóng tỉnh Đắk Nông tạo thế và lực để quân và dân ta giành nhiều thắng lợi tiếp theo.
Địa bàn xã Quảng Trực sau khi được giải phóng, du kích xã hỗ trợ các địa phương khác đánh hàng chục trận. Phối hợp với bộ đội huyện đánh tại ngã ba Đắk Song, tiêu diệt 5 tên, bắt sống 1 tên, thu 9 khẩu súng, bắn cháy 2 xe R10c; phối hợp với tỉnh đội đánh vào thị xã Đồng Xoài, tiêu diệt 1 trung đội, bắt sống 8 tên, bắn cháy 4 xe R10c, thu 2 khẩu cối 61mm, trên 20 khẩu súng các loại; năm 1973, hỗ trợ đánh sân bay Bù Boong, giải phóng Bù Boong, đưa bà con của xã trở về quê cũ; ngoài ra, du kích xã còn hỗ trợ đánh tại Phước Long, Bù Đăng, Kiến Đức, Nhân Cơ...và tham gia lực lượng giải phóng tiến về Sài Gòn.
Bu Prăng là địa danh mãi mãi khắc ghi trong lịch sử dân tộc ghi danh Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Quảng Trực kiên cường bám trụ, thực hiện ba mũi giáp công (Quân sự, Chính trị, Binh vận), chuẩn bị chiến trường, phục vụ chiến đấu, giúp bộ đội chủ lực trong các trận đánh, đã tham gia trực tiếp trên 30 trận đánh lớn, nhỏ. Nơi nuôi dưỡng, che giấu và bảo vệ nhiều bộ đội, cán bộ và thương binh (như: Phùng Đình Ấm, Ba Ta (bên trên là Bảy Ta), Bảy Lê, Phạm Văn Phận, Trần Thị Thảo …), vùng căn cứ thực sự đã trở thành cái nôi che giấu, bảo vệ cán bộ cách mạng, góp phần rất quan trọng trong việc phát triển thực lực cách mạng. Là nơi ghi dấu những thành tích, những chiến công vẻ vang, sự hy sinh gian khổ của cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 541, đã anh dũng, kiên cường bám trụ xây dựng cụm kho dự trữ chiến lược để tiếp nhận một khối lượng lớn hàng hóa, vũ khí, quân trang, thuốc men, xăng dầu từ hậu phương miền Bắc và nguồn hàng do lượng thu mua ở Stung-Treng, CamPuChia chuyển về để phục vụ cho chiến trường miền Đông Nam Bộ (từ năm 1973 đến 30/4/1975), góp phần quan trọng vào chiến dịch giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trải qua chặng đường đầy gian nan, thử thách trong quá trình chiến đấu, xây dựng và phát triển, Quảng Trực ngày nay đã có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong xã được nâng lên, nhất là đời sống của các gia đình chính sách từng bước ổn định. Có được như vậy là nhờ sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, đầu tư của Nhà nước, sự đoàn kết, đồng sức, đồng lòng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã đã phát huy truyền thống anh hùng đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm xây dựng quê hương Tuy Đức ngày càng giàu đẹp, xứng danh với truyền thống cách mạng của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Quảng trực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn Văn Kỳ