Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, trận Điện Biên Phủ lịch sử nói riêng là kết tinh sức mạnh và ý chí tự lực tự cường của toàn dân tộc Việt Nam.
Chính tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (đứng bên phải) trình bày với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 (Ảnh tư liệu)
|
Rõ ràng, chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố mà nổi lên là sức mạnh trí tuệ, cùng ý chí của khối đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, sáng tạo của Đảng ta, và “đó cũng là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”[1]. Ấy vậy mà, với sự chống phá của các thế lực thù địch, với luận điệu cho rằng, “Nếu không có sự giúp đỡ của nước ngoài thì Việt Nam không thể có chiến thắng Điện Biên Phủ!?” đã cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta, phủ nhận sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc ta trong chiến thắng vĩ đại ấy.
Trước hết cần khẳng định, trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là trước và trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ quan trọng của Liên Xô, Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa, của liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương, của nhân loại tiến bộ trên thế giới. Chúng ta luôn ghi nhớ và không bao giờ quên sự giúp đỡ đó. Nhưng, xét từ bất kỳ phương diện nào, thì mọi giúp đỡ, dù lớn đến đâu cũng không thể giúp sự nghiệp cứu nước của một dân tộc tới thắng lợi cuối cùng nếu sự nghiệp ấy không mang tính chính nghĩa, thiếu tinh thần tự chủ, thiếu đường lối chính trị đúng đắn và bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu sách lược quân sự sáng tạo và hiệu quả, không phát huy được sức mạnh vật chất và tinh thần của toàn dân tộc. Đây là nguyên tắc, có tính chất sống còn.
Ngay từ khi xác định việc tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh trước khi người Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương, đồng thời xác định trận Điện Biên Phủ là trận quyết chiến, chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh và kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã hạ quyết tâm chiến lược tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Với quyết tâm đó, cho nên ta đã tính toán rất kỹ lưỡng từ việc xây dựng hậu cần, căn cứ địa cho đến phương thức tác chiến, để từ phương châm từ “đánh nhanh, thắng nhanh, “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, chọn Điện Biên Phủ - nơi mạnh nhất của Pháp lúc bấy giờ để tiêu diệt, là một quyết định đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo và kịp thời của Đảng.
Tuy nhiên, vấn đề khó nhất trong thực hiện chiến dịch Điện Biên Phủ được Đảng ta xác định là vấn đề hậu cần, bởi đây là chiến dịch lớn, diễn ra trong thời gian dài, cần lượng lớn lương thực, vũ khí đạn dược, chiến trường ở xa hậu phương 500 - 700km; điều kiện đường sá, thời tiết khó khăn, phương tiện vận tải thiếu thốn, kẻ địch thường xuyên đánh phá ác liệt. Do vậy, để đảm bảo thắng lợi cho chiến dịch, công tác chuẩn bị phải hết sức kỹ lưỡng và đòi hỏi sức mạnh của toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”[2].
Với khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, “Tất cả vì Điện Biên Phủ”, với ý chí tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính, toàn Đảng, toàn dân tập trung toàn lực chi viện cho tiền tuyến, quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhanh chóng biến thành hành động. Phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc “cả nước một lòng”, toàn dân đánh giặc, không chỉ nhân dân ở vùng tự do mà cả nhân dân các vùng tạm chiếm cũng hàng hái góp phần phục vụ chiến dịch. Từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc đến các khu căn cứ địa ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thượng Lào, từng đoàn xe tải, xe đạp thồ, đoàn ngựa thồ đã không quản khó khăn, gian nguy, vượt thác, qua ghềnh vận chuyển lương thực, đạn dược, thuốc men ra mặt trận. Hàng vạn dân công, thanh niên xung phong ngày đêm trèo đèo, lội suối vận chuyển lương thực, vũ khí tiếp tế cho mặt trận; mở đường, sửa đường dưới sự uy hiếp, bắn phá của máy bay địch; tham gia cứu thương, xây dựng kho tàng... Nhân dân ta không những cung cấp cho bộ đội mọi nhu cầu chiến đấu và chiến đấu bên cạnh bộ đội mà còn săn sóc bộ đội từ cây kim sợi chỉ, từ miếng quà, tấm bánh, gửi hàng nghìn bức thư cổ vũ, thăm hỏi các chiến sĩ trên chiến trường.
Trước sự chi viện lớn từ hậu phương, địch ra sức bắn phá các tuyến cung cấp của ta và coi đây là phương sách cứu vãn tình thế. Song, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng cung cấp tiền phương, nhân dân ta đã đem một tinh thần anh dũng và chịu đựng gian khổ rất cao ra phục vụ chiến dịch. Tiêu biểu là lực lượng dân công tỉnh Thanh Hóa với hàng nghìn chiếc thuyền lớn nhỏ, từng đoàn bè mảng hàng vạn chiếc vượt qua thác ghềnh, mang lương thực đạn dược ra mặt trận để cung cấp cho quân đội. Lực lượng dân công tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Giang đã vượt qua vòng đai trắng chuyên chở hàng chục nghìn tấn gạo, giải quyết một phần lớn khó khăn cho chiến dịch. Đoàn dân công C.15 tỉnh Phú Thọ luôn bảo đảm mức gánh gạo, đạn lên tới 35 kg thậm chí có cá nhân gánh tới 40 kg. Ở tuyến tiếp tế Tây Bắc đã có đến bảy, tám ngàn dân công xe đạp vượt đèo cao đi từ phía đông Điện Biên Phủ sang phía tây để vận chuyển gạo, đạn với mức thồ từ 120- 150kg. Đồng bào Mông ở các rẻo cao xa mấy ngày đường vẫn dắt ngựa xuống thành lập các đội dân công vận tải xuống tiếp tế cho bộ đội. Có thể nói, tất cả đều hướng ra mặt trận, công nhân, nông dân, trí thức, học sinh nhà buôn, thậm chí cả địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch, “Trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ, cả nước đã huy động 261.453 dân công miền ngược, miền xuôi với trên 18 triệu ngày công tham gia phục vụ chiến dịch. Huy động 25.056 tấn gạo cung cấp cho Điện Biên Phủ”[3]. Hình ảnh những chiếc xe đạp thồ 1-2 tạ, cao nhất là 3,52 tạ vượt qua hàng trăm kilômét đường đèo dốc đã đã vận chuyển lương thực, đạn dược của lực lượng dân công thực sự là một kỳ công chưa từng có trong lịch sử. Hình ảnh những con đường mở qua các sườn núi và ngọn đèo xung quanh Điện Biên Phủ là kết tinh sức mạnh của cả bộ đội, dân công và mọi tầng lớp nhân dân đã bạt núi, xẻ đồi mở đường cho pháo binh và kéo pháo vào trận địa.
Cùng với việc cung ứng trực tiếp cho chiến dịch, các tầng lớp nhân dân trong cả nước đã chiến đấu sát cánh với bộ đội, chủ động tiến công, tiêu hao sinh lực địch, phục vụ tích cực cho quân ta chủ động mở một loạt đợt tiến công địch trên nhiều hướng như: Chiến trường Lào, Tây Nguyên, Nam Bộ nhằm tiêu diệt lực lượng cơ động của địch. Ở các chiến trường sau lưng địch như đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ..., nhân dân đã lăn mình vào khói lửa đạn bom tải thương binh ra khỏi giao thông hào như đơn vị Cẩm Khê (Phú Thọ), Hà Trung (Thanh Hóa)... Đơn vị dân công tỉnh Yên Bái đã có sáng kiến lên rừng chặt cây lấy nứa làm cầu chuyển thương binh. Cùng với đó, công tác binh vận và hoạt động vũ trang cũng được nhân dân cả nước phát huy mạnh mẽ. Nhân dân các địa phương đã ra sức động viên thanh niên lên đường nhập ngũ giết giặc lập công...Có thể khẳng định, đó là sức mạnh chính trị - tinh thần, sức mạnh vật chất, sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến được phát huy cao nhất, tạo sức mạnh tổng hợp làm nên chiến thắng lịch sử.
Trên thực tế, đường lối kháng chiến toàn dân của Đảng đã thực sự phát huy và khơi dậy sức mạnh, tinh thần yêu nước của cả một dân tộc. Sức mạnh ấy, tinh thần ấy đã khiến cho kẻ thù phải bàng hoàng, kinh ngạc, cúi đầu và cuối cùng phải chấp nhận thất bại. Chiến thắng ấy đã trả lời cho câu hỏi Việt Nam chiến thắng là do đâu? Trong tác phẩm Trận Điện Biên Phủ, nhà báo Giuyn Roa, nguyên đại tá quân đội Pháp thừa nhận: “... không phải viện trợ của Trung Quốc đã đánh bại tướng Nava mà đó là những chiếc xe đạp Pơgiô thồ 200-300 kg hàng, do những dân công ăn không no, ngủ trên những tấm ni lon trải ngay trên mặt đất. Tướng Nava bị đánh bại bởi trí thông minh và quyết tâm chiến thắng của đối phương”[4]. Chân dung những con người tình nguyện phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ chính là hình ảnh của sức mạnh Việt Nam từ ngàn đời, tiêu biểu cho truyền thống yêu nước nồng nàn, “trăm họ đều là binh, chí dân mạnh hơn thành quách” là vậy!
Chiến thắng Điện Biên Phủ trở thành một trong những chiến công vĩ đại nhất trong thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam cũng như của các dân tộc đang đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Đánh giá về tinh thần đại đoàn kết toàn dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chưa bao giờ trong suốt mấy năm kháng chiến, dân ta đã góp nhiều công sức như trong Đông - Xuân 1953-1954 để chi viện cho quân đội đánh giặc... Bọn đế quốc... không bao giờ đánh giá được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục được tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ địch”[5].
Cùng với sức mạnh của truyền thống yêu nước, của đại đoàn kết toàn dân thì một trong những nguyên nhân giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là bộ đội ta luôn nắm chắc, làm chủ tình hình, chủ động về mặt chiến lược, điều chỉnh phương châm tác chiến kịp thời, bố trí lực lượng phù hợp. Đó là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ quân sự với chính trị, tác chiến với binh vận, tiêu diệt địch với phát động quần chúng giành quyền làm chủ; phối hợp chặt chẽ tác chiến của ba thứ quân, của các binh chủng, quân chủng, đánh du kích và đánh tập trung, đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn. Đó là sự chi viện, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, bạn bè quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới và cả nhân dân Pháp; đặc biệt là tình đoàn kết, kề vai sát cánh, liên minh chiến đấu, cùng chung chiến hào chống thực dân Pháp xâm lược của quân đội và nhân dân ba nước Đông Dương…
68 năm trôi qua, nhưng hào khí, tinh thần của thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn tỏa sáng. Phát huy bài học thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ trong thời đại mới, bài học bao trùm hơn cả đó là bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Bài học luôn phát huy nội lực, hết sức coi trọng nội lực - đó là sự tổng hợp sức mạnh từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ sự điều hành, quản lý của Nhà nước, từ hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân; Bài học về sự tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ quốc tế, thực hiện nghiêm túc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và chủ trương vừa tăng cường hợp tác, vừa đấu tranh, kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, cân bằng quan hệ với các nước lớn, tích cực, chủ động nắm bắt thời cơ và ngày càng hội nhập sâu rộng, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, để hào khí, tinh thần Điện Biên Phủ luôn tỏa sáng trong thời đại mới.
Cẩm Trang