Từ bản Sơ thảo những luận cương của V.I. Lênin đến việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc luôn đề cao công lao to lớn của V.I.Lênin đối với cách mạng ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam mà xuất phát điểm ban đầu là từ quan điểm về vấn đề dân tộc và thuộc địa trong bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (gọi tắt là Sơ thảo những luận cương)
Người khẳng định: “Nếu giai cấp vô sản phương Tây coi Lênin là một thủ lĩnh, một lãnh tụ, một người thầy thì các dân tộc phương Đông lại coi Lênin là một con người vĩ đại hơn nữa, cao quý hơn nữa”[1]. Bởi chính tư tưởng của V.I.Lênin đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm đường giải phóng dân tộc Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Tư tưởng về dân tộc, thuộc địa và đấu tranh giải phóng dân tộc được V.I.Lênin bàn đến nhiều ở các tác phẩm được viết vào những năm đầu thế kỷ XX; trong đó được thể hiện tập trung nhất, rõ nhất trong tác phẩm Sơ thảo những luận cương được trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản và được đăng trên Tạp chí Quốc tế Cộng sản số 11, ngày 14-7-1920 và trên báo Nhân đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp. Tác phẩm tuy ngắn gọn nhưng có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh bấy giờ vì nó đã củng cố những nguyên tắc mácxít về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sơ thảo những luận cương đã được coi là cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản trong tình hình lúc bấy giờ.
Bản Sơ thảo những luận cương gồm 12 luận điểm, trong đó nội dung chính tập trung ở ba vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc. Trong Sơ thảo những luận cương, V.I.Lênin đã xác định đúng đắn, khoa học vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia, về quyền bình đẳng của các dân tộc. V.I.Lênin chỉ rõ, “phân biệt thật rõ rệt những dân tộc bị áp bức, phụ thuộc, không được hưởng quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bóc lột, được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi”[2]. Từ đó Người đã lên tiếng bảo vệ các dân tộc bị áp bức và tố cáo các dân tộc lợi dụng thế mạnh của mình để đàn áp các dân tộc khác.
Thứ hai, vấn đề thuộc địa. V.I.Lênin không chỉ quan tâm đến vận mệnh của nước Nga, mà còn luôn quan tâm sâu sắc đến vận mệnh của các dân tộc thuộc địa. Người đặt ra yêu cầu với các đảng cộng sản, tổ chức quốc tế phải giúp đỡ các dân tộc bị áp bức và phụ thuộc trong cuộc đấu tranh giải phóng của họ; tạo ra sự gắn kết giữa phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, tạo thành mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc, “cần phải thi hành một chính sách thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất của tất cả các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa với nước Nga xô-viết”[3]. Đồng thời, giúp đỡ cho chiến sĩ cộng sản ở các nước, các dân tộc thuộc địa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân dẫn đến thành lập nhiều đảng cộng sản trên toàn thế giới,
Thứ ba, vấn đề giải phóng dân tộc. V.I.Lênin chỉ rõ, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ sống còn của các nước thuộc địa lúc bấy giờ, “điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau đề tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”[4].
Có thể nói, bản Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin có ý nghĩa trực tiếp và to lớn đối với nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề con đường cách mạng giải phóng cho dân tộc Việt Nam cũng như các nước thuộc địa khác. Trên hành trình tìm đường cứu nước, vấn đề lớn mà Nguyễn Ái Quốc luôn quan tâm và trăn trở chính là vấn đề con đường giải phóng dân tộc cho Việt Nam. Đến khi được tiếp cận với những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin trong bản Sơ thảo những luận cương (7-1920), Nguyễn Ái Quốc mới nhận rõ con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người đã nhận ra, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản - con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công.
Có thể khẳng định, những tư tưởng cơ bản trong bản Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin có nhiều điểm phù hợp với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót trước nỗi thống khổ của quần chúng lao động khắp thế giới và sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa cũng như tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động trong đấu tranh. Người viết: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[5].
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đón nhận bản Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin với niềm phấn khởi và tin tưởng của một người chiến sỹ cách mạng sau nhiều năm tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn. Sau đó, chính Nguyễn Ái Quốc đã viết thư bằng tiếng Pháp gửi Quốc tế Cộng sản và cho biết, Sơ thảo những luận cương cỏ ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan và giúp Người dứt khoát đi theo Quốc tế III vì nó giải quyết hợp lý vấn đề giai cấp và dân tộc, không chỉ quan tâm giải phóng nhân dân lao động và vô sản chính quốc, mà còn giải phóng các dân tộc bị áp bức, trong đó có Việt Nam, Người nói: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những la cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[6].
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (người đầu tiên bên trái, hàng ngồi) với một số đại biểu tham dự Đại hội lần thứ 5 Quốc tế cộng sản tại Moskva, từ 17-6 đến 8-7-1924 (Ảnh: Tư liệu)
|
Khi vận dụng nội dung Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng ở thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa”[7]. Đó là cơ sở để cách mạng vô sản ở thuộc địa có tính độc lập, chủ động không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, nó có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin khi khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa có thể tiến hành trước ở các nước chính quốc và đến lượt mình sẽ có thể giúp đỡ cách mạng ở các nước chính quốc tiến lên.
Cùng với đó, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển tư tưởng về khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của V.I.Lênin (bỏ qua gián tiếp) thành tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ con đường này chẳng những giải phóng hoàn toàn dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa đế quốc, mà còn giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi sự áp bức bóc lột, đi đến ấm no, hạnh phúc thực sự. Thực tế, sự lựa chọn này vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nhân loại và thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và ngày nay, tư tưởng ấy vẫn là “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam, “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[8].
Có thể khẳng định, bản Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ thực tế cách mạng, Người càng ra sức tìm hiểu và thấu suốt được tinh túy của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra. Rõ ràng, chính bản Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, để: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Qua bản Sơ thảo những luận cương của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đó con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
Kỷ niệm 152 năm ngày sinh của V.I.Lênin (22/4/1870-22/4/2022) là dịp chúng ta thêm một lần nữa nhìn nhận, khẳng định những công lao, cống hiến vĩ đại của V.I.Lênin cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng vì sự tiến bộ của nhân loại. Đó cũng chính là thực hiện tốt lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta kỷ niệm đồng chí Lênin, thương nhớ đồng chí Lênin thì càng phải học tập và thực hành chủ nghĩa Mác - Lênin”[9], “là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”[10]. Đồng thời, “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắcTổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được nghiêng ngả, dao động”[11] trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả của đất nước hiện nay.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb. CTQG, H.2011, tr.317
[2] V.I.Lênin, Toàn tập,t.41.Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr.198-199.
[3] V.I.Lênin, Toàn tập, t.41. Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr.200.
[4] V.I.Lênin, Toàn tập, t.41. Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr.199.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb. CTQG, H.2011, tr.562
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb. CTQG, H.2011, tr.563
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb. CTQG, H.2011, tr.295.
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Nxb.CTQGST, H, 2011, tr.70.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, H. 2011, tr.14.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H. 2011, tr.611.
[11] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQGST, H. 2021, tập I, tr.33.