Đắk Nông sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
Tỉnh Đắk Nông là tỉnh miền núi nằm trong vùng Tây Nguyên có điều kiện kinh tế không thuận lợi, dân cư thưa thớt và là Tỉnh được tái thành lập (năm 2004) trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, hiện tại Tỉnh chưa có đường cao tốc và nằm cách xa cảng biển nên không hấp dẫn, thu hút nhà đầu tư đến đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp cũng như các nhà đầu tư đến đầu tư, kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Việc chấp thuận chủ trương đầu tư cũng như triển khai đầu tư xây dựng các dự án công nghiệp hiện nay gặp khó khăn vướng mắc liên quan đến quy hoạch thăm dò, khai thác quặng bô xít và quy định của Luật Khoáng sản. Mặt khác, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để triển khai đầu tư các dự án áncòn gặp rất nhiều khó khăn.
Để thể chế hóa việc thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW, Tỉnh ủy Đắk Nông đã chỉ đạo xây dựng và ban hành các Chương trình, Nghị quyết, Kế hoạch để triển khai thực hiện như: Chương trình hành động số 32-CTr/TU, ngày 08/10/2018 của Tỉnh ủy Đắk Nông về thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về “Định hướng xây dựng chính sách phát triến công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Kế hoạch số 307/KH-UBND ngày 13/6/2019 của UBND tỉnh Đắk Nông thực hiện Chương trình số 32-CTr/TU ngày 08/10/2018 của Tỉnh ủy Đắk Nông về việc thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 19/8/2021 của Tỉnh ủy Đắk Nông về phát triển công nghiệp giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030; Chương trình số 36-CTr/TU ngày 14/12/2021 của Tỉnh ủy Đắk Nông về thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch số 514/KH-UBND ngày 08/9/2022 của UBND tỉnh Đắk Nông về Phát triển công nghiệp tỉnh Đắk Nông đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW, Tỉnh ủy Đắk Nông đã chỉ đạo các ban đảng của Tỉnh ủy, các đảng đoàn, ban cán sự đảng của tỉnh, các huyện ủy, thành ủy trực thuộc Tỉnh ủy căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, đơn vị mình xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình số 32-CTr/TU ngày 08/10/2018; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Thông qua việc triển khai thực hiện đã góp phần thực hiện điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp phù hợp với điều kiện địa phương, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp; tăng cường đổi mới việc ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến trong sản xuất, gia tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ… theo đúng quan điểm, định hướng của Bộ Chính trị trong thực hiện Nghị quyết.
Tỉnh ủy Đắk Nông đã cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 23/NQ-TW thành quan điểm chỉ đạo nhất quán trong Chương trình số 32-CTr/TU ngày 08/10/2018, đó là:
Một là, nhận thức, tôn trọng, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với các điều kiện phát triển của tỉnh, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kiên quyết chống mọi biểu hiện duy ý chí, quan liêu, bao cấp trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách công nghiệp quốc gia. Kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển phải khách quan, dựa trên các nguyên tắc, tiêu chí rõ ràng, phù hợp với từng giai đoạn và phát huy tốt nhất các lợi thế của địa phương.
Hai là, tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất công nghiệp để tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, trong đó tập trung hai mũi nhọn có lợi thế lớn là công nghiệp chế biến sâu alumin - nhôm và chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm nghiệp để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phát triển công nghiệp điện phân nhôm và công nghiệp sản xuất các sản phẩm sau nhôm, kéo dài chuỗi giá trị bắt đầu từ bô xít. Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển công nghiệp bô xít - alumin - nhôm để sớm xây dựng Đắk Nông thành trung tâm công nghiệp sản xuất và luyện kim màu lớn của đất nước. Tiếp tục khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; công nghiệp chế biến nông, lâm sản; nhất là công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp mà Đắk Nông có thế mạnh như: cà phê, cao su, tiêu, ngô, bơ…;
Ba là, đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), phấn đấu chỉ số xếp hạng hàng năm đạt mức trung bình khá; rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh... để tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư; xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút doanh nghiệp đủ mạnh vào tỉnh đầu tư. Qua đó gắn kết với nông dân để hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sáng kiến và đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị để cơ giới hoá và tự động hoá dây chuyền chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng và tạo ra những mặt hàng có giá trị gia tăng cao để xuất khẩu sản phẩm.
Bên cạnh đó, thời gian qua tỉnh Đắk Nông đã thu hút được nhiều doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm đến Đắk Nông thực hiện nghiên cứu, khảo sát và đề xuất đầu tư như: Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát, Công ty cổ phần Tập đoàn hóa chất Đức Giang, Công ty cổ phần Tập đoàn đầu tư Việt Phương, Công ty cổ phần Tập đoàn TH và một số doanh nghiệp khác..., tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp khai thác bô xít - alumin - nhôm, năng lượng tái tạo.
Tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ cấu GRDP của tỉnh, tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp tăng trưởng còn chậm; tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ và tăng không đáng kể, chuyển dịch lao động từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp còn diễn ra chậm. Phát triển công nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược thực hiện dự án có tính lan tỏa, tác động lớn đến phát triển công nghiệp của tỉnh; tiến độ triển khai một số dự án đầu tư về công nghiệp, điện gió còn chậm.
Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến nông sản chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, chất lượng sản phẩm chưa cao, năng lực cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế nên khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ; sản xuất còn phụ thuộc vào tính mùa vụ, khó khăn về nguồn nguyên liệu và thiếu ổn định để phục vụ cho sản xuất. Một số sản phẩm công nghiệp và sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của tỉnh tăng so với cùng kỳ nhưng còn đạt thấp so với kế hoạch.
Nguồn lực đầu tư cho phát triển khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn hạn chế. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật (hệ thống cấp, thoát nước và xử lý nước thải tập trung) tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển ảnh hưởng đến kết quả thu hút đầu tư. Số lượng khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện nay còn ở mức thấp, hoạt động một số cụm công nghiệp kém hiệu quả, chậm triển khai đầu tư, công tác quản lý bảo vệ không tốt để người dân lấn chiếm xây dựng nhà ở trái phép trong thời gian dài dẫn đến tình trạng khiếu kiện, gây lãng phí nguồn lực về đất đai. Do ảnh hưởng của tình hình suy thoái kinh tế, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và tác động của đại dịch Covid-19 kéo dài đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thu hút đầu tư và hoạt động sản xuất công nghiệp trong tỉnh. Các doanh nghiệp chế biến nông sản chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, hộ cá thể, tiềm lực tài chính hạn hẹp, sản xuất chủ yếu là sơ chế, không đầu tư đổi mới công nghệ để thực hiện chế biến sâu, khả năng tham gia, hội nhập vào nền kinh tế thị trường còn hạn chế. Để phát triển công nghiệp của tỉnh hiệu quả, bền vững cần thường xuyên tuyên truyền, nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, doanh nghiệp và người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của phát triển công nghiệp theo Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Thường xuyên rà soát, đề xuất, kiến nghị Trung ương điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển công nghiệp phù hợp với điều kiện, nhu cầu thực tiễn của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Các ngành, các cấp cần xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện các Nghị quyết, Kế hoạch của Trung ương, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về chính sách phát triển công nghiệp. Đồng thời theo dõi, giám sát, đánh giá rút kinh nghiệm từ quá trình thực tiễn. Xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh đòi hỏi các ngành, các cấp có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp công nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ kiến nghị, đề xuất tiếp tục thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW :
Thứ nhất, đối với Bộ Chính trị, Ban Bí thư: Tây Nguyên có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, là địa bàn có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng về an ninh, quốc phòng. Do vậy, kính đề nghị Bộ Chính trị xem xét sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết số 23-NQ/TW; trong đó cần ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng cũng như có những cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển công nghiệp đối với khu vực Tây Nguyên. Dự án Nhà máy điện phân nhôm được triển khai đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông từ năm 2014, đến nay đã cơ bản hoàn thành phần xây lắp và đang trong giai đoạn chuẩn bị lắp đặt thiết bị, theo tiến độ dự kiến trong năm 2024 sẽ đi vào vận hành giai đoạn I với công suất 150.000 tấn nhôm/năm. Đây là Dự án có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng, là tiền đề để tiến tới hình thành ngành công nghiệp bô xít - alumin - nhôm của đất nước trong tương lai. Về quan điểm, định hướng phát triển ngành công nghiệp này cũng đã được Bộ Chính trị thống nhất quan điểm chỉ đạo và định hướng phát triển tại Kết luận số 31-KL/TW, ngày 07/3/2022. Do vậy, kính đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện cũng như kịp thời tháo gỡ, giải quyết những vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách áp dụng của Dự án trên tinh thần đảm bảo tính nhất quán theo quan điểm, định hướng Kết luận của Bộ Chính trị để sớm đưa Dự án đi vào vận hành sản xuất.
Thứ 2, đối với Chính phủ: Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, có tiềm năng, lợi thế nhất định trong phát triển công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp khai thác bô xít - alumin - nhôm; năng lượng tái tạo. Do vậy, kính đề nghị Chính phủ cần có sự quan tâm, ưu tiên hỗ trợ đầu tư phát triển cũng như có cơ chế, chính sách đặc thù để sớm xây dựng Đắk Nông trở thành Trung tâm công nghiệp khai thác, chế biến bô xít - alumin - nhôm theo đúng quan điểm, định hướng của Bộ Chính trị; Quyết định số 09/QĐ-TTg ngày 11/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành kế hoạch hành động triển khai thực hiện Kết luận số 31-KL/TW ngày 07/3/2022 của Bộ Chính trị về “định hướng phát triển ngành công nghiệp bô xít - alumin - nhôm giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Kính đề nghị Chính phủ cần quan tâm hơn nữa trong việc chỉ đạo xử lý, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án đầu tư công, dự án thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025, các dự án đầu tư ngoài ngân sách nằm trong các vùng quy hoạch thăm dò, khai thác quặng bô xít để Tỉnh triển khai thực hiện dự án và chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án đầu tư theo thẩm quyền. Quan tâm xem xét, sớm có ý kiến chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách áp dụng đối với Dự án Nhà máy điện phân nhôm để Chủ đầu tư an tâm tiếp tục thực hiện đầu tư, sớm đưa dự án đi vào hoạt động sản xuất; thực hiện nhất quán về cơ chế, chính sách áp dụng đối với Dự án theo Quyết định số 822/QĐ-TTg ngày 30/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ 3, đối với các Bộ, ngành: Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương hướng dẫn việc triển khai thực hiện công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác nằm trong vùng quy hoạch thăm dò, khai thác quặng bô xít đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 về việc phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời, cung cấp bản đồ phân bố khu vực chứa thân quặng bô xít đã được phê duyệt trữ lượng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, làm cơ sở cho UBND tỉnh rà soát các dự án phát triển kinh tế - xã hội chồng lấn với khu vực có chứa thân quặng để tiến hành rà soát, thực hiện việc triển khai các dự án theo quy định của pháp luật.
Đề nghị Bộ Công thương sớm tham mưu ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 124/NQ-CP ngày 03/9/2020.
Ánh Nga