Giải pháp nâng cao cuộc vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[[1]].
Xét đến cùng thực hiện phản biện xã hội là lắng nghe, học tập trí tuệ của nhân dân và từ đó quay lại phục vụ nhân dân, huy động, cổ vũ sức mạnh tổng hợp của mọi giai tầng xã hội phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong hoạt động này vai trò của MTTQ các cấp là hết sức quan trọng.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Đảng ta khẳng định, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải phản ánh được nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để có thể tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng cho cách mạng.
Văn kiện Đại hội X của Đảng nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng thành hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân. Nhà nước ban hành và bổ sung pháp luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” [[2]].
Để thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao công tác Mặt trận của tỉnh trong thời gian tới như sau:
(1)Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập họp các tầng lớp nhân nhân, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc:
Tuyên truyền và tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Đề án “Đối mới công tác thông tin, tuyên truyền của Mặt trận Tố quốc Việt Nam” trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực hiện tốt việc nắm bắt, tập họp ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân để phản ánh với cấp ủy, chính quyền địa phương định kỳ hằng quý và phục vụ nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tô quốc Việt Nam các cấp.
(2)Phát huy tinh thần sáng tạo và tự quản của nhân dân, triển khai các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước:
Tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả nội dung các Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị vãn minh”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” gắn với 03 chương trình mục tiêu của Quốc gia. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Đoàn kết sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, hội nhập quốc tế”. Công tác cứu trợ khi có tình huống xảy ra. Triển khai xây nhà Đại đoàn kết cho các hộ nghèo, hộ khó khăn về nhà ở trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý Quỹ Vì người nghèo, Qũy cứu trợ bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định. Tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của Đoàn Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam về tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư; tiếp tục tuyên truyền, vận động xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện Đề án “Tăng cường vận động, đoàn kết các dân tộc ở nước ta hiện nay”. Tổ chức thăm hỏi, động viên đồng bào theo đạo trên địa bàn tỉnh.
(3)Thực hiện dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia phòng chống, tham nhũng, lãng phí tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh:
Tập trung triển khai, hiệu quả Chương trình số 56-CTr/TU, ngày 13/01/2023 của Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; cấp tỉnh tổ chức giám sát về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Phối họp cùng các tổ chức thành viên, các cơ quan ban ngành giám sát theo chuyên đề tại các cơ quan, ban ngành các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Phối họp tổ chức các hội nghị tiếp xúc cử tri với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân phản ánh đến Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp.
Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; cải cách hành chính, nhất là trách nhiệm công khai, minh bạch của chính quyền các cấp; phối họp giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Tiếp tục thực hiện tốt Đề án phát động “Toàn dân tham gia phòng ngừa, tố giác vi phạm pháp luật trong quản lý, bảo vệ phát triển rừng và quản lý đất đai, khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh.
(4)Tăng cường đoàn kết quốc tế, mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân:
Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương đối ngoại của Đảng, chính sách ngoại giao của nhà nước. Đồng thời tích cực phối hợp với các tổ chức thành viên và các đồn biên phòng đóng chân trên địa bàn nắm tình hình và tuyên truyền, vận động nhân dân các xã biên giới tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch trên địa bàn tỉnh.
(5)Tăng cường xây dựng và củng co tổ chửc, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tiêp tục đối mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ các cấp:
Đổi mới phương thức hoạt động, cũng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống MTTQ Việt Nam các cấp; đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức tư vấn của MTTQ Việt Nam các cấp.
Văn Bá
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, trang 295.
[2]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2006, trang 43