• Trang chủ Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Lịch sử hình thành
      • Giới thiệu chung
      • Lịch sử hình thành
      • Điều kiện tự nhiên
    • Lãnh đạo qua các thời kỳ
      • Danh sách BCH Đảng bộ tỉnh khóa X
      • Danh sách BCH Đảng bộ tỉnh khóa XI
      • Danh sách BTV Đảng bộ tỉnh khóa XI
    • Cơ cấu tổ chức Tỉnh ủy
      • Thường trực Tỉnh ủy
      • Ban Thường vụ Tỉnh ủy
      • Ban Chấp hành Đảng bộ
      • Các Ban xây dựng Đảng
      • Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy
      • Các Huyện ủy, thành ủy
      • Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy
  • Tin tức - sự kiện
    • Hoạt động lãnh đạo tỉnh
    • Tiêu điểm - Điểm báo
    • Tư tưởng - Chính trị
    • Công tác Dân vận
    • Kiểm tra - Giám sát
    • Công tác Nội chính
    • Công tác văn phòng
    • Hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ
    • Tổ chức - Xây dựng Đảng
    • Mặt trận - Đoàn thể
  • Tài liệu Hội nghị
    • Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
  • Phần mềm nội bộ
    • HT Chỉ đạo, điều hành của Tỉnh ủy
    • Phản ánh kiến nghị -KN -TC
    • Phần mềm Phòng họp không giấy
    • Phần mềm Quản lý Tài sải
    • Phần mềm Quản lý văn bản
  • Văn kiện đảng
    • Điều lệ Đảng
    • Văn kiện Đảng toàn tập
    • Văn kiện Đại hội
    • Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương
    • Hệ thống văn bản của Đảng
  • Liên hệ
Quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lấn thứ XII và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Đảng bộ tỉnh Đắk Nông
 
 Site map  Góp ý  Hỏi đáp  Phản ánh - kiến nghị RSS 
Chia sẽ bài viết qua email
Bài viết: Phát huy truyền thống cách mạng ở Đắk Nông
* Email không hợp lệ
*
* Email không hợp lệ
*
 Gửi email
 
Trang chủ » Tin tức - sự kiện » Thông tin tổng hợp
Thứ 6, 29/04/2022
Phát huy truyền thống cách mạng ở Đắk Nông
​​​​​​​Các dân tộc thiểu số Tây Nguyên vốn đã có một truyền thống bất khuất từ lâu đời, truyền thống từ phong trào khởi nghĩa N’Trang Gưh (1900-1914), khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912-1936), Săm-Brăm … vẫn được nung nấu trong lòng người dân Tây Nguyên nói chung, Đắk Nông nói riêng. Truyền thống đó tiếp tục được phát huy trong đấu tranh chống thực dân, đế quốc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Tiếp tục đấu tranh chống thực dân Pháp trong kháng chiến trường kỳ (1946-1954) đã đưa xã hội Tây Nguyên bước sang một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử của mình. Giai đoạn phát triển mới đó được biểu hiện trong những cuộc đấu tranh toàn dân, toàn diện với tính chất tự giác. Từ những cuộc đấu tranh có nội dung yêu sách về những vấn đề kinh tế cụ thể như chống đi xâu, nộp thúê đã mang một nội dung cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, thực hiện công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và dân chủ nhân dân ở Tây Nguyên. Ngay từ khi đế quốc bước chân vào Tây Nguyên lần thứ hai vào đầu những năm 1946, các dân tộc Tây Nguyên đã hợp lực cùng những đơn vị bộ đội chủ lực ở đồng bằng, chặn đánh địch. Mặc dù thực dân Pháp lợi dụng sức mạnh về quân sự tấn công ồ ạt vào Tây Nguyên, nhưng từ năm 1946-1948, chính quyền cách mạng vẫn thành lập được hầu hết ở mọi nơi, du kích Tây Nguyên vẫn hoạt động ở Buôn Hồ, Đắk Lắk, Buôn Ma Thuột. Từ đầu những năm 1950, một giai đoạn mới trong lịch sử kháng chiến ở Tây Nguyên được mở ra, nhiều vùng sau lưng địch dần dần biến thành căn cứ du kích vững chắc, nhất là những vùng ở phía Bắc quốc lộ 21. Mỗi tỉnh, huyện ở Tây Nguyên đều có căn cứ du kích riêng, làng chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên bắt đầu mọc lên ở khắp nơi. Du kích Tây Nguyên từ những tổ 5, 7 người đã phát triển thành những đại đội, tiểu đoàn tập trung như đại đội Kon-plông của người Ba Na, tiểu đoàn N’Trang Lơng của người Ê Đê - Gia Lai, tiểu đoàn Sơn Hà, Đinh-tơ-rong của người Chăm Re… Lực lượng vũ trang Tây Nguyên và các làng chiến đấu Tây Nguyên từ năm 1951 trở đi, đã bắt đầu bẻ gãy được những cuộc hành quân quy mô của địch. Trong thời kỳ này, tinh thần đấu tranh của nhân dân các dân tộc lên khá cao, tiêu biểu là tinh thần đấu tranh dân tộc Ba Na ở làng Stơr và dân tộc Sơ-đăng của ở làng Soát-dùi. Hai làng này đã tự mình xây dựng làng chiến đấu với một hệ thống phòng ngự dài hàng chục cây số gồm các hố chông, bẫy đá, mang cung..., gần 10 năm tự túc lương thực trong hoàn cảnh bị giặc bao vây, 5 năm ăn lạt vì không có muối, sản xuất ủng hộ kháng chiến. Bằng vũ khí thô sơ, Stơr và Soát-dùi đã đánh bại nhiều lần tấn công dữ dội của địch, tự trang bị cho mình bằng vũ khí cướp được của giặc… Anh hùng quân đội Núp là một trong những nhân vật đáng ghi nhớ của phong trào đấu tranh trong các làng chiến đấu hồi bấy giờ. Tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của các dân tộc Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến lần thứ nhất là cuộc đấu tranh phá tan trại tập trung Đác-pớt của gần 6.000 đồng bào Ba Na hồi tháng 3-1951. Nhân dân trong trại đã vùng lên giết chết bọn lính canh gác, đốt phá trại rồi kéo nhau vào rừng lập căn cứ du kích để đánh giặc và sản xuất lương thực nuôi sống đồng bào.

Tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế quốc để hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân Tây Nguyên lại phải đương đầu với đế quốc Mỹ và tay sai. Từ năm 1954 đến 1956, ở Tây Nguyên có nhiều cuộc biểu tình của đồng bào các dân tộc tại Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ, Đắk Lắk, Gia Lai, đòi hiệp thương, đòi đế quốc Mỹ thi hành hiệp định Giơne-ơ, tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Đồng bào còn tổ chức hội họp, mít tinh để vạch mặt gian ác của đế quốc Mỹ, tố cáo các vụ thảm sát ở Ngân Sơn, Chợ Được, Quảng Trị…, giết hại một cách dã man đồng bào các dân tộc. Mặt khác, đồng bào còn đấu tranh đòi thực hiện mọi quyền tự do dân chủ ở Tây Nguyên, chống việc bắt xâu mở rộng đường sá, chống bắt lính, tăng thuế… Để bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào, nhiều nơi đã xây dựng lại những làng chiến đấu, bố trí khắp rừng các hầm chông, bẫy đá, mang cung, xây dựng các tổ du kích để đánh chặn địch đi càn quét.

Từ cuối năm 1958 đến năm 1960, một cuộc đấu tranh gay gắt đã diễn ra ở Tây Nguyên. Đế quốc Mỹ dựa vào sức mạnh và vũ khí ra sức đốt làng, dồn dân vào ấp chiến lược, khu dinh điền, chúng lùng bắt, bắn giết dã man những người chống lại, không chịu vào ở trong các “địa ngục trần gian” đó. Các dân tộc thiểu số Tây Nguyên thì dựa vào sức mạnh đoàn kết, tinh thần đấu tranh kiên cường để chống dồn làng một cách anh dũng. Cuộc đấu tranh đang diễn ra ở thế dằng co khốc liệt, đế quốc Mỹ dự định thực hiện hàng loạt gần 5000 ấp chiến lược, khu dinh điền một lúc, nhưng đến cuối năm 1959, mặc dù đã hết sức cố gắng, chúng cũng chỉ làm được trên dưới 1000 cái mà bản thân 1000 ấp chiến lược đó cũng đang lung lay và tan vỡ trước sức mạnh đấu tranh của đồng bào trong các ấp.

Đó là “Phong trào tự trị Tây Nguyên” do ông Y Bih Alêô đứng đầu, nằm trong mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. “Phong trào tự trị Tây Nguyên” đã đoàn kết được hầu hết các tầng lớp trong các dân tộc thiểu số Tây Nguyên từ người Bih, người M’nông ở núi cao đến người Ê Đê, Gia Rai ở cao nguyên… trong một mặt trận chung chống đế quốc. “Phong trào tự trị Tây Nguyên” đã tự nguyện đứng vào hàng ngũ mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt Nam, tiến tới thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc cho tất cả dân tộc thiểu số. Từ khi mới thành lập, phong trào đã phát triển nhanh chóng, đã mở rộng nhiều căn cứ kháng chiến sát tận vùng địch chiếm, đã huy động nhân dân các dân tộc chống càn thắng lợi, đã phá tan được quốc sách “ấp chiến lược”, “khu dinh điền” ở Tây Nguyên; đã xây dựng được lực lượng vũ trang ngày càng hùng mạnh, đủ sức đánh bại hàng tiểu đoàn địch, đánh tan những chi khu quân sự quan trọng. “Phong trào tự trị Tây Nguyên” còn tích cực chăm lo cải thiện đời sống kinh tế và văn hoá cho các dân tộc trong khu kháng chiến. Sách báo bằng tiếng dân tộc, trường học các cấp được mở ra ở nhiều nơi, phong trào thanh toán nạn mù chữ được phát triển rộng rãi trong quần chúng. Trong khu kháng chiến còn có cả hệ thống trường phổ thông, trạm xá và một số cơ sở y tế, vệ sinh phòng bệnh ở các thôn xã.

Đó là tinh thần phản chiến của các đơn vị lính Thượng thuộc các lực lượng đặc biệt của đế quốc Mỹ ở Tây Nguyên. Các đơn vị lính Thượng này được đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam nuôi dưỡng khá chu đáo, có nhiều cố vấn Mỹ trực tiếp huấn luyện và chỉ huy. Đế quốc Mỹ muốn biến những đơn vị lính Thượng này thành những đội quân xung kích đóng giữ ở những nơi xung yếu để đàn áp cách mạng như đế quốc Pháp trước đây đã thực hiện. Nhưng hơn lúc nào hết, tinh thần phản chiến của binh lính người Thượng ngày một tăng cao. Từ đầu năm 1961, những vụ đào ngũ cá nhân, mang theo súng đạn về với nhân dân, những vụ chống lệnh càn quét hoặc bắn súng chỉ thiên, những vụ một vài người lính bắn vào nhà chỉ huy như vụ Pa-lak ở gần đường 21([1]), rồi bỏ đồn trốn đi xảy ra lẻ tẻ ở nhiều nơi. Từ giữa năm 1962 đến đầu năm 1963, những vụ phản chiến và đào ngũ tập thể đã xuất hiện trong nhiều đơn vị lính Thượng ở Tây Nguyên. Đầu năm 1963, nhiều đơn vị lính Thượng ở Kon Tum đòi huỷ bỏ lệnh đi càn quét của cố vấn Mỹ. Ở Buôn Ma Thuột, binh lính Thượng đòi được bình đẳng và chống sự chỉ huy của bọn cố vấn Mỹ. Ở buôn E-a-nao (vùng phụ cận Buôn Ma Thuột), 220 lính người dân tộc Ê Đê nổi lên bắn giết bọn chỉ huy hung ác rồi mang toàn bộ vũ khí của Mỹ phát quay về với nhân dân([2]). Đặc biệt, từ đầu năm 1964, bên cạnh những chiến thắng lớn của quân dân Tây Nguyên, một phong trào phản chiến trong binh lính người Thượng đang lan rộng ở Tây Nguyên, làm tan vỡ nhanh chóng những đội nguỵ quân người Thượng của đế quốc Mỹ. Điển hình như vụ phản chiến ngày 20-9-1964 của 500 lính Thượng, thuộc lực lượng đặc biệt đóng ở Buôn Ma Thuột. Số quân phản chiến này đã nổi lên đánh chiếm thị xã, đài Phát thanh Buôn Ma Thuột, ra tuyên bố đòi tự trị và đòi được bình đẳng dân tộc rồi rút về một vùng gần vùng Ba biên giới (Buôn Ma Thuột) để tổ chức căn cứ chống lại những đơn vị binh lính bù nhìn ở miền Nam Việt Nam. Chỉ trong gần một tuần sau vụ phản chiến 20-9-1964, số binh lính người Thượng tham gia phản chiến đã lên tới 4000 người và từ một nơi ở Buôn Ma Thuột đã lan rộng khắp bốn tỉnh thuộc Tây Nguyên. Vụ phản chiến 20-9-1964, là màn mở đầu của một phong trào phản chiến diễn ra liên tục trong tất cả các binh lính người dân tộc thiểu số trên Tây Nguyên, tiếp tục đấu tranh kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành độc lập, thống nhất tổ quốc.

Phát huy truyền thống bất khuất của các thế hệ đi trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Tây Nguyên và cả nước nói chung, nhân dân Đắk Nông nói riêng, đã kề sai sát cánh, đoàn kết một lòng, cùng đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi to lớn. Giặc thất bại thảm hại, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của đế quốc Mỹ với chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Mùa Xuân 1975, thống nhất đất nước.

Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đất nước ta bước vào thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Đó là thuận lợi cơ bản và là nguồn động lực tinh thần để Đảng bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Nông cùng cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ mới, với bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng, các cấp Đảng bộ và nhân dân trên địa bàn Đắk Nông vững tin bước vào xây dựng quê hương trong hoà bình. Với vị trí địa lý thuận lợi, diện tích đất nông nghiệp rộng lớn, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, cũng như cả miền Nam, vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề. Đồng bào dân tộc thiểu số với cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, lạc hậu, phương thức sản xuất du canh du cư, đời sống hết sức nghèo đói, trình độ dân trí thấp, đội ngũ cán bộ vừa yếu, vừa thiếu. Mặt khác, tỉnh lại có địa hình phức tạp với nhiều rừng núi và khoảng 141 km đường biên giới với Campuchia. Sau ngày thống nhất, các thế lực thù địch, đặc biệt là bọn FULRO ra sức lôi kéo các phần tử chống đối cách mạng và thường xuyên gây rối an ninh chính trị… Đó là vô vàn những khó khăn, thách thức đối với các cấp Đảng bộ và nhân dân trên địa bàn cần phải khắc phục.

Kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc của cha ông trong thời đại hoà bình, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đắk Nông đã phát huy sức mạnh đoàn kết, bảo lưu, giữ gìn những giá trị văn hoá dân tộc. Phát huy truyền thống yêu quê hương đất nước, ý chí độc lập tự do, tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, các dân tộc trên địa bàn Đắk Nông đã tạo nên sức mạnh tinh thần và nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc và giữ gìn, làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ luôn kiên định quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, coi trọng kết hợp mục tiêu chính trị và chăm lo lợi ích cụ thể của đồng bào các dân tộc, kết hợp giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị với đưa quần chúng đi vào hành động cách mạng. Qua đó, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng.

Hiện nay, với tiềm năng và thế mạnh của địa phương, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Đắk Nông quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, tiếp tục phát huy truyền thống quật cường, bất khuất của quê hương N'Trang Lơng anh hùng, đoàn kết, chung sức đồng lòng, vượt qua thách thức, tạo sức bật vươn lên mạnh mẽ, phấn đấu đưa kinh tế Đắk Nông vươn lên, đạt những thành tựu đáng tự hào trên các lĩnh vực.

Năm 2021, quy mô nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng, tổng sản phẩm trên địa bàn ước đạt hơn 20.700 tỷ đồng, tăng 8,63% so với năm trước. Với tốc độ tăng trưởng này, tỉnh Đắk Nông xếp thứ 2 ở khu vực Tây Nguyên (sau Gia Lai) và đứng thứ 7 của cả nước. Kinh tế duy trì tốc độ phát triển khá cao trong nhiều năm liên tục. Tốc độ tăng trưởng (GRDP) bình quân giai đoạn ước đạt 6,15% (gần bằng với mức bình quân chung của cả nước), quy mô nền kinh tế tăng 1,34 lần so với đầu nhiệm kỳ. GRDP bình quân đầu người đạt 52,1 triệu đồng. Thu ngân sách đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đạt 2.600 tỷ đồng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đến nay có 36/61 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Giáo dục và đào tạo đạt nhiều kết quả, chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng lên. Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia có kết quả tích cực, hết năm 2021 toàn tỉnh có 166 trường đạt chuẩn quốc gia. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực, Đến năm 2021 đạt tỷ lệ 19,4 giường bệnh/vạn dân và 8,6 bác sĩ/vạ dân, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 91%. Công tác phòng chống dịch Covid - 19 được triển khai quyết liệt, cơ bản khống chế các ổ dịch, không để lây lan trên diện rộng. Các lĩnh vực văn hóa, thể thao, thông tin và truyền thông đạt nhiều kết quả quan trọng. Công tác giảm nghèo, tạo việc làm được thực hiện quyết liệt, hiệu quả, an sinh xã hội được bảo đảm; tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 2%, riêng tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giảm trên 4%. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố ngày càng vững mạnh. Công tác đối ngoại được thực hiện chủ động và hiệu quả, triển khai đồng bộ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân. Công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả quan trọng, các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận 01-KL/TW về thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Việc thực hiện Quy định của Trung ương và các nghị quyết, quy định của Tỉnh uỷ về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp được triển khai thực hiện nghiêm túc. Qua đó, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, bước đầu đã ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tạo được những chuyển biến tích cực trong việc khắc phục những yếu kém, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.

Những thành tựu và kinh nghiệm tích luỹ tù trong sự hy sinh phấn đấu anh dũng, vẻ vang của thế hệ cha anh đã trở thành hành trang quý báu của Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, đưa tỉnh nhà trở thành tỉnh giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng - an ninh.

Phạm Thị Lục

 


[1]. Nguyễn Đình Lê, vị thế, ý nghĩa của phong trào N’Trang Lơng trong lịch sử đấu tranh chống thực dân pháp xâm lược của các dân tộc Tây Nguyên trước năm 1945, tr7

[2]. Mạc – Đường. Chủ nghĩa đế quốc xâm lược vào Tây Nguyên và lịch sử đấu tranh của các dân tộc Tây Nguyên chống đế quốc, tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 70 (1 – 1965), tr50

Chia sẻ:
2
Bài đã đăng:
  • UBND tỉnh Đắk Nông tổ chức Hội nghị trực tuyến đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tháng 4, phương hướng, nhiệm vụ tháng 5/2025  (5/8/2025 10:22:53 AM)
  • Kết quả lấy ý kiến cử tri về chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk Nông  (4/25/2025 3:59:39 PM)
  • Quý I/2025, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đạt 1.404 tỷ đồng, bằng 44% dự toán địa phương giao  (4/8/2025 9:19:52 AM)
  • Tình hình thực hiện một số dự án đầu tư công trọng điểm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông  (4/8/2025 9:15:56 AM)
  • Đắk Nông họp triển khai công tác chuẩn bị khởi công Dự án đường cao tốc Gia Nghĩa - Chơn Thành  (4/3/2025 5:24:22 PM)
  • Một số kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội quý I/2025  (4/3/2025 11:29:45 AM)
  • Năm 2024, tỉnh Đắk Nông tiếp hơn 3.000 công dân  (1/22/2025 8:43:56 AM)
  • Kỳ họp Chuyên đề thứ 12, HĐND tỉnh Đắk Nông  (1/21/2025 8:35:36 AM)
  • Năm 2025, dự kiến hỗ trợ xoá nhà tạm, nhà dột nát cho 1.755 hộ  (1/21/2025 8:32:43 AM)
  • Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy thăm, chúc tết các đồn biên phòng  (1/17/2025 8:30:04 AM)
KẾT LUẬN - THÔNG BÁO Xem thêm
  • KL của Thông báo TTTU tại HN tổng kết 10 năm thực hiện NQ số 33-NQ/TW, ngày 30/5/1998 của BCH TW khóa XI về "XD và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước"
  • Thông báo V/v phân công nhiệm vụ của các thành viên Tiểu ban Nhân sự ĐH Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII
  • Thông báo về chủ trương nghiên cứu, biên soạn và phát triển Lịch sử Đảng bộ huyện Đắk Rlap, giai đoạn 2005-2025
  • Thông báo kết luận chỉ đạo của TTTU tại HN tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hộ
  • Thông báo về tăng cường công tác phòng, chống tai nạn, thương tích và đuối nước ở trẻ em
LỊCH LÀM VIỆC Xem thêm
VIDEO
  • Thác Độc Lạ Nhất Đăk Nông EZRHR4cVdBo
  • Thác Dray sap - Dray Nu, Đắk Nông cEF3_aeiiGc
  • Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng - Đắk Nông NGcOWpxIMQo
  • Thắc Đắk G'lun thác nước đẹp nhất Đăk Nông 5T0EpUt4qKw
  • Quan Cảnh Tại Đắk Nông Qua Góc Nhìn Flycam -lI1NpdQjgo
HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG
Cảnh đẹp Đắk Nông
Cảnh đẹp Đắk Nông
Cảnh đẹp Đắk Nông
Cảnh đẹp Đắk Nông
Cảnh đẹp Đắk Nông
LIÊN KẾT HỮU ÍCH
THỐNG KÊ TRUY CẬP
Tổng truy cập: 2634075
Đang online: 39
  • Trang chủ
  • Site map
  • Liên hệ
  • Góp ý
  • Hỏi đáp
  • Hoạt động của lãnh đạo tỉnh
  • Tin tức - sự kiện
  • Nghị quyết
  • Tỉnh ủy Đắk Nông
  • Bản tin Thông báo Nội bộ
  • Lịch tiếp xúc cử tri
  • Thông tin tổng hợp
  • Danh mục Phần mềm ứng dụng
  • Lịch tiếp công dân
  • Tài liệu Hội nghị
  • Văn bản chỉ đạo điều hành
  • Thông tin chuyên đề
  • Hoạt động
  • Lấy ý kiến dự thảo Văn bản
  • Phần mềm nội bộ
  • Tiêu điểm - điểm báo
  • Lý luận - Thực tiễn
  • Tư tưởng - Hồ Chí Minh
  • Thông tin phục vụ lãnh đạo
  • Tài liệu Hội nghị
  • Bản tin Thông báo Nội bộ
 Trang chủ  Site map  Liên hệ  Góp ý  Hỏi đáp
Bản quyền thuộc TỈNH ỦY ĐẮK NÔNG 
Cơ quan chủ quản: TỈNH ỦY ĐẮK NÔNG
Chịu trách nhiệm xuất bản: Ông Hồ Xuân Hậu - Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Trưởng Ban Biên tập
Giấy phép thiết lập Cổng thông tin điện tử: Số 146/GPTTĐT-STTTT của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Đắk Nông
Địa chỉ: Đường Lê Lai, Phường Nghĩa Trung, Thành Phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông
Điện thoại: 05013.544.266 – Fax:  05013.544.265  Email: vptu@daknong.gov.vn