Đại thắng mùa Xuân 1975 - khẳng định bản lĩnh Việt Nam
Đại thắng mùa Xuân 1975 là sự hội tụ sức mạnh của dân tộc, sự kết tinh của niềm tin, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong cuộc đối đầu lịch sử với những thử thách cam go, quyết liệt nhất, trước kẻ thù hung bạo nhất trong lịch sử.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện tinh thần quật khởi của cả dân tộc Việt Nam khi tiến hành một cuộc “trường chinh” vĩ đại với ý chí thép, chấp nhận hy sinh tất cả để đổi lấy hòa bình, non sông thu về một mối, hoàn thành khúc khải hoàn ca. Thành công đó đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố hàng đầu làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Trung ương Đảng đã tập trung chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc chuẩn bị mọi mặt: xây dựng thế trận, phát triển lực lượng, động viên tư tưởng - chính trị; vật chất hậu cần, kỹ thuật; mạng lưới đường cơ động chiến lược, chiến dịch, mở rộng vùng giải phóng... Đảng chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và phát triển đảng viên ở địa bàn Trung ương Cục miền Nam phụ trách.
Theo đó, những đơn vị chủ lực tinh nhuệ, chính quy, hiện đại, cơ động, linh hoạt lần lượt ra đời như Quân đoàn I - Quyết Thắng (24-10-1973), Quân đoàn II - Binh đoàn Hương Giang (17-5-1974) và Quân đoàn I - Binh đoàn Cửu Long (20-7-1974), Quân đoàn III (27-3-1975) gồm các đơn vị đang chiến đấu trên Mặt trận Tây Nguyên. Cùng với đó, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc phòng và các quân khu được xây dựng. Các quân chủng Phòng không - Không quân và Hải quân, các binh chủng Pháo binh, Thiết giáp, Đặc công, Công binh, Thông tin phát triển nhanh, đồng bộ theo phương hướng tác chiến hợp đồng binh chủng, quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu xây dựng các quân đoàn.
Khối lượng hàng hóa, vũ khí, đạn dược từ miền Bắc được chuyển vào miền Nam tăng nhanh, “trên 80% quân số, 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là từ miền Bắc đưa vào”[1]. Cùng với đó, “hậu cần Miền còn tích luỹ được 28 ngàn tấn ở các khu vực trọng điểm chuẩn bị cho các kế hoạch chiến lược lớn; hậu cần của các quân khu cũng dự trữ được hơn 3 ngàn tấn vũ khí đạn dược”[2]. Ngoài ra, Đảng chủ trương xây dựng, phát triển và hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải. Mạng đường chiến lược, chiến dịch và hệ thống kho dự trữ chiến lược được xây dựng tương đối hoàn chỉnh là những yếu tố rất quan trọng làm cho lực lượng cách mạng miền Nam có bước phát triển nhảy vọt.
Trong hai năm 1973,1974, một vùng giải phóng rộng lớn nối liền từ Tây Trị Thiên tới vùng rừng núi Khu 5, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Hạ Lào và Campuchia được xây dựng thành hậu phương trực tiếp của các binh đoàn chủ lực. Các căn cứ này nối liền ra phía trước và về hậu phương lớn thành thế liên hoàn vững chắc giữa ba vùng chiến lược, giữa hậu phương lớn với tiền tuyến lớn.
Sáng tạo trong sử dụng nghệ thuật quân sự
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự về chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển đến trình độ cao. Đó là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, dùng trang bị kỹ thuật ít hơn, lạc hậu, kém hiện đại đánh thắng kẻ thù có trang thiết bị vũ khí hiện đại, thể hiện một tư duy quân sự sáng tạo. Đảng đã kiên định phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp, gồm hai lực lượng cơ bản là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; kiên quyết giữ vững và phát huy chiến lược tiến công; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao; kết hợp giữa cuộc đấu tranh trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và tìm phương pháp kéo Mỹ xuống thang từng bước để ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự còn được thể hiện trong tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân, đa dạng về cách thức đánh địch, đánh địch ở mọi lúc, mọi nơi trên cả 3 vùng chiến lược (nông thôn đông băng, rừng núi và đô thị) và tác chiến thế “cài răng lược” trên toàn bộ chiến tuyến.
Nghệ thuật tạo thời cơ, thúc đẩy và chớp thời cơ
Trong giai đoạn cuối chiến tranh cách mạng, thành công nổi bật là Đảng xác định đúng đắn đường lối chính trị trong tình hình mới, nhạy bén với sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình cách mạng sau khi Hiệp định Paris được kí kết.
Ban Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, Hà Nội, tháng 4-1975 (Ảnh: Tư liệu)
|
Từ ngày 30-9 đến ngày 9-10-1974, Hội nghị Bộ Chính trị khẳng định: “Chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn...”[3]. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975- 1976. Để thực hiện chủ trương này, quân và dân hai miền Nam Bắc tập trung cao độ cho công tác chuẩn bị với tinh thần khẩn trương và quy mô rộng lớn. Theo đó, từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-01-1975, tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng nhất trí: “Phải chủ động tạo ra thời cơ, chứ không thể bị động ngồi chờ. Khi thời cơ đến thì phải kiên quyết, kịp thời chóp lấy thời cơ... Hạ quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong hai năm 1975-1976 là đúng. Nhưng kế hoạch cần đề phòng tình huống sớm hơn, trong năm 1975, và cả tình huống kéo dài qua năm 1977. Như vậy mới chủ động, vững vàng”[4]. Nhưng, ngay sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, ngày 18-3-1975, Quân ủy Trung ương đề nghị Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976. Với quyết tâm đó, cuộc tiến công chiến lược trên thực tế đã chuyển thành cuộc Tổng tiến công chiến lược.
Thực tế, sau khi Đà Nẵng được giải phóng, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 25-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975, tiếp đó, nắm bắt thời cơ, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31-3-1975 quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4-1975. Bộ Chính trị quyết định “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”[5]. Có thể thấy, chỉ trong vòng 2 tuần (từ ngày 18-3 đến ngày 31-3- 1975), Đảng đã liên tục bổ sung quyết tâm chiến lược, 3 lần thay đổi thời gian, từ kế hoạch 2 năm đến kế hoạch giải phóng miền Nam ngay trong tháng 4-1975. Đây là quyết định rất dũng cảm, khoa học và là thành công nổi bật, xuất sắc về chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo nghệ thuật quân sự của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Sài Gòn-Gia Định -đòn quyết chiến, chiến lược cuối cùng, trong đó ta xác định, khi địch không còn bất ngờ về địa điểm, về thời gian thì ta sẽ tạo bất ngờ bằng lực lượng áp đảo, bằng cách đánh táo bạo. Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh tiến vào Sài Gòn-Gia Định bắt đầu và kết thúc thắng lợi trưa ngày 30-4-1975. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giành toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Có thể khẳng định, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta đến tinh thần chiến đấu, hy sinh quả cảm, thông minh của toàn thể nhân dân ta mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta; tình đoàn kết chiến đấu liên minh bền vững của nhân dân 3 nước Đông Dương và sự ủng hộ mạnh mẽ, chân tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới… Thắng lợi đó chính là bằng chứng thuyết phục nhất về bản lĩnh, trí tuệ tuyệt vời của Đảng, Nhân dân và các lực lượng vũ trang anh hùng.
Phát huy hào khí Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giai đoạn hiện nay, nhằm phát huy nguồn lực, sức mạnh và tiềm năng sáng tạo vĩ đại của toàn dân tộc,“đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[6]. Hiện thực khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam”[7] để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như hội nhập sâu rộng, toàn diện, có hiệu quả với sự phát triển của thế giới đương đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cẩm Trang
[1] Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam 1945-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, HN. 1997, tr. 174-178.
[2] Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), T.8, Toàn thắng, Nxb. CTQG, H.2008, tr. 87.
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2004, tập 35, tr.185.
[4] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong Mùa Xuân toàn thắng, Hồi ức, Phạm Chí Nhân thể hiện, Nxb.CTQG, HN. 2000, tr.156.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, HN. 2004, tập 36, tr.95-96.
[6] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQGST, HN.2021, tập I, tr. 33-34.
[7] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQGST, HN.2021, tập I, tr. 34.