Phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dù ở bất cứ giai đoạn, hoàn cảnh nào, với bản lĩnh, ý chí, nghị lực, lòng nhân ái, nhân hậu, đức hy sinh và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên, phụ nữ Việt Nam đã vượt qua mọi nghịch cảnh, rào cản, định kiến, khó khăn, trở ngại, có những đóng góp, cống hiến to lớn, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc Việt Nam.
Truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của phụ nữ Việt Nam được khởi nguồn từ thời Bà Trưng, Bà Triệu - những người phụ nữ đã vùng lên cùng toàn dân đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc. Trong đấu tranh, vũ khí của họ không hẳn là súng đạn, mà chủ yếu là lòng yêu nước, là tinh thần quật khởi của phụ nữ miền Nam.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã phát động nhiều cao trào đấu tranh chính trị của quần chúng, trong đó các cuộc biểu tình đều có đông đảo phụ nữ tham gia. Năm 1930-1931 hàng trăm cuộc biểu tình, bãi công, bãi thị của công, nông đã nổ ra. Các cuộc biểu tình đều có đông đảo phụ nữ tham gia. Ngoài những yêu sách chống đánh đập, cúp phạt lương của công nhân, còn có những yêu sách riêng cho nữ công nhân. Các cuộc đấu tranh công khai hợp pháp trên diễn đàn báo chí cũng được khởi xướng như cuộc vận động nữ quyền trên báo Phụ nữ Tân Văn…Ngoài ra, các hình thức đấu tranh khác như: biểu tình đòi dân sinh, dân chủ, chống thuế, chống phát xít cũng hết sức rầm rộ.
Năm 1936-1939 với phong trào Đông Dương đại hội, phụ nữ miền Nam đóng góp tích cực vào cuộc vận động yêu nước ở tất cả các cấp, tích cực công tác xã hội và đấu tranh chính trị, cụ thể như cuộc biểu tình chào đón Godard, đòi hoà bình…
Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám 1945 và 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), phụ nữ miền Nam tham gia đông đảo trên nhiều lĩnh vực của đấu tranh chính trị như đòi dân sinh dân chủ, đòi quyền lợi thiết thân hàng ngày cho công nhân, chống đuổi nhà, đốt nhà của nhân dân lao động, chống bắt lính, chống hãm hiếp phụ nữ…Cụ thể như cuộc biểu tình đón Justin Godart, đám tang Trần Văn Ơn, Trần Bội Cơ…
Trong giai đoạn 1954 - 1960, khi liên minh Mĩ - Diệm định hình chế độ cai trị ở miền Nam, phong trào đấu tranh chính trị của phụ nữ Nam Bộ diễn ra với quy mô rộng lớn, sôi nổi, rầm rộ, khí thế đấu tranh quật khởi, kiên cường. Phụ nữ Nam Bộ không chỉ dũng cảm, gan dạ, kiên trung sẵn sàng đối diện trước mũi lê, họng súng của quân đội đối phương, đấu tranh bảo vệ cán bộ, đảng viên cách mạng mà còn khéo léo, mềm dẻo vận động, tranh thủ binh lính Sài Gòn góp phần hạn chế các hành động đàn áp, khủng bố khốc liệt từ chính quyền Ngô Đình Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng.
.jpg)
Phụ nữ tỉnh Long An đấu tranh chính trị chống go dân vào ấp chiến lược (1969-1972)
Theo đó, thời kỳ này ở đô thị, Ban phụ vận được thành lập để chỉ đạo các tỉnh tổ chức Hội Phụ nữ Việt Nam với phương châm tổ chức là kết hợp giữa bí mật, công khai và bán công khai, lấy bí mật là chủ yếu để bảo tồn lực lượng. Trong công tác bảo vệ hòa bình có nhiều phụ nữ tham gia như liên lạc với Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát. Các chị em hoạt động công khai, hợp pháp còn được cử vào Ban chấp hành “Nghiệp đoàn Kí giả Việt Nam”.
Năm 1955, nhiều cuộc biểu tình nổ ra khắp các tỉnh, từ Chợ Lớn, Gò Công, Châu Đốc đến Sa Đéc, Vĩnh Long, Cần Thơ…Song song với các cuộc biểu tình, bãi công của phụ nữ Nam Bộ thì các cuộc đấu tranh bãi thị cũng diễn ra mạnh mẽ, rầm rộ và trở thành phổ biến của lực lượng phụ nữ trên khắp địa bàn và gây được tiếng vang lớn ở thành thị lẫn nông thôn.
Năm 1957, khi chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” được chính quyền Sài Gòn nâng lên hàng quốc sách ở khắp các thôn xã của Nam Bộ, truy bức quần chúng nhân dân li khai Đảng, các mẹ, các chị em đã dũng cảm đấu tranh với những lí lẽ cương quyết, không khuất phục. Nhiều buổi tố cộng của quân đội Sài Gòn ở một số nơi lại trở thành các buổi tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu thâm độc của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đối phó với các làn sóng đấu tranh bất khuất của phụ nữ Nam Bộ là những hành động đàn áp, bắt bớ, tù đày hàng trăm người vào các tù ngục và tra tấn rất dã man. Nhưng bất chấp tất cả, phụ nữ Nam Bộ vẫn trung kiên, không hề lo sợ khuất phục trước cường quyền. Họ vẫn kiên cường đấu tranh trong ngục tù và vẫn một lòng một dạ hướng về Đảng.
Các cuộc đấu tranh chính trị mạnh mẽ của lực lượng phụ nữ Nam Bộ còn góp phần bảo tồn các cơ sở, tổ chức Đảng, che chở và bảo vệ cán bộ, đảng viên trong những lúc khó khăn nhất của cách mạng. Nhiều cuộc truy lùng, vây bắt cán bộ, đảng viên cách mạng của quân đội Sài Gòn đã được phụ nữ che giấu, bảo vệ và khôn khéo tìm cách giải thoát nếu chẳng may bị bắt. Phụ nữ còn là lực lượng nòng cốt trong các đội dân canh chống cướp, đội bảo vệ xóm làng.
Trong phong trào đấu tranh giữ lại ruộng đất do cách mạng cấp trước đó cũng thể hiện được vai trò to lớn của phụ nữ Nam Bộ. Phụ nữ là lực lượng đấu tranh trực tiếp với quân đội Sài Gòn để giữ lại ruộng đất bị cướp.
Trong các phong trào đấu tranh chống lập khu dinh điền, khu trù mật của quân và dân Nam Bộ diễn ra trên khắp vùng nông thôn những năm 1957 - 1959 thì lực lượng phụ nữ luôn giữ vai trò nòng cốt và đã phát huy hiệu quả to lớn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện đường lối chiến lược và phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi” (chính trị, quân sự, binh vận) của Đảng, có thể nói đấu tranh chính trị tiêu biểu nhất, sáng tạo nhất của phụ nữ Nam bộ là đấu tranh trực diện của “Đội quân tóc dài” – đội quân đặc biệt này xuất hiện từ cao trào Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960, sau đó lan rộng toàn miền Nam, từ thành thị đến nông thôn, vùng tạm chiếm đến trung tâm đô thị Sài Gòn. Nội dung, hình thức đấu tranh, tổ chức đội ngũ của đội quân tóc dài luôn thay đổi, biến hoá linh hoạt, thích nghi với từng hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, các cuộc đấu tranh chống bắt lính, chống dồn dân lập “ấp chiến lược”, chống bắn pháo, rải chất độc hóa học, đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng… diễn ra ở khắp nông thôn miền Nam. Ở thành thị, nữ công nhân, sinh viên học sinh, tiểu thương, trí thức, ni sư Phật tử … có mặt trong nhiều cuộc mít tinh, biểu tình. Từ lực lượng phụ nữ, phong trào tập hợp thêm nhiều tầng lớp nhân dân khác: nông dân, học sinh, trí thức, tu sĩ, thậm chí cả binh sĩ ngụy.
Trong khí thế sôi nổi của phong trào Đồng khởi, ngày 20/12/1960 Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 8/3/1961, Hội Liên hiệp Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập là ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp phụ nữ miền Nam và lãnh đạo các cuộc đấu tranh chính trị của phụ nữ đã vận dụng sáng tạo phương châm “hai chân, ba mũi” và thể hiện nó trong từng đợt đấu tranh, trong từng chiến dịch, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch.
.jpg)
Phụ nữ huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xuống đường đấu tranh chính trị chống đế quốc Mỹ, năm 1972.
Trong đấu tranh, phụ nữ kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với binh vận tạo nên thế mạnh để giành những thắng lợi, bằng việc kêu gọi binh lính, vận động gia đình có chồng con đi lính hãy đoạt đồn, lấy bót. Phương pháp sử dụng trong binh vận của phụ nữ rất cụ thể và sáng tạo: vận động binh sĩ quay súng về với nhân dân bằng cách kêu gọi gia đình binh lính, ở một số nơi, phụ nữ trực tiếp đến đồn bót kêu gọi chồng con trở về, không đi lính quốc gia. Tuyên truyền những khẩu hiệu hòa bình trực tiếp đến các cấp của hệ thống chính quyền Ngụy: rải truyền đơn bươm bướm đến các đồn giặc, dùng dư luận bàn tán những vấn đề thời sự, tung tin tác động đến sự phản chiến trong lính ngụy, viết bản cáo trạng tội ác dán theo các ngã đường hành quân của địch.
Đấu tranh chính trị của phụ nữ không những đánh trực tiếp vào quân ngụy mà còn trực tiếp với cả Mỹ. Bên cạnh đó là các cuộc đấu tranh chính trị chống càn tại chỗ, phụ nữ kéo cả đoàn người dùng giáo mác, gậy gộc bao vây chặn đầu xe M113, M41 không cho lính Mỹ đốt nhà, triệt phá xóm làng, chống thảm sát… với quy mô lớn và liên tục chủ yếu là phong trào chống và phá ấp chiến lược.
Có thể khẳng định, những đóng góp bền bỉ, to lớn của các thế hệ nối tiếp thế hệ phụ nữ nước ta ngày càng tô thắm thêm truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam và chính những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong các phong trào đấu tranh cách mạng ở chặng đường đã qua là hành trang và kinh nghiệm đáng quý để phụ nữ các thế hệ tiếp theo tiếp tục đem tài năng, trí tuệ góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn mới.
Cẩm Trang