Chủ tịch Hồ Chí Minh - “Tổng tư lệnh tối cao” trên mặt trận tư tưởng, nhà tư tưởng lỗi lạc của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bởi “tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất”[1]. Do đó, “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”[2]. Cho nên, “Phải đánh thông tư tưởng và động viên sáng kiến và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi người quyết tâm làm cho được và tin tưởng làm nhất định được”[3].
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi nhân dân xã Tân Phong, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, năm 1956 (Ảnh: Tư liệu)
Trong công tác tư tưởng thì công tác tuyên truyền là một trong ba bộ phận cấu thành công tác tư tưởng (công tác lý luận; công tác tuyên truyền, cổ động; công tác văn hóa, văn nghệ), có vị trí hết sức quan trọng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Đường lối, các quan điểm, tư tưởng của Đảng đến với quần chúng để tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ, động viên quần chúng thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Do đó, phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh là sự tổng hợp những cách thức, là khoa học và nghệ thuật mà Người đã tiếp thu, kế thừa, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại, để giải thích, chứng minh, cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng vảo bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành nhiều sự quan tâm đến công tác tuyên truyền. Người đã sử dụng rất nhiều ngôn ngữ, thể loại báo chí, văn học để truyền bá tư tưởng cách mạng và đấu tranh chống đế quốc, thực dân phong kiến. Đồng thời, là người đầu tiên thực hiện công tác tuyên truyền của Đảng ngay sau khi Người xác định con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam là con đường đi theo học thuyết Mác – Lênin, đặc biệt với tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người viết: “Sách này chỉ ước ao sao cho đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”[4]. Do đó, với sự nỗ lực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các chiến sĩ cách mạng, phong trào “vô sản hóa” thấm sâu vào đời sống công nhân, đem đến ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và làm chuyển hóa mạnh mẽ về chất trong phong trào công nhân, phong trào yêu nước, thúc đẩy sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, tuyên truyền phải là một hoạt động thống nhất về mục đíc; về đối tượng tượng; về phương pháp và đặt ra những yêu cầu đối với người làm công tác tuyên truyền.
Về mục đích của tuyên truyền: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên truyền “là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”[5]. Cho nên, nội dung tuyên truyền ngắn gọn, sâu sắc, thiết thực, cụ thể, phải viết, nói gọn gàng, rõ ràng, vắn tắt, phải xác định: “Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cách thế nào?”[6]. Cùng với đó, hình thức tuyên truyền diễn đạt dễ hiểu, dễ thực hiện. Qua đó, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân xây dựng thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, nâng cao nhận thức chính trị, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng.
Đối tượng tuyên truyền: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết người tuyên truyền phải nắm vững đối tượng được tuyên truyền, Người lưu ý rằng: Dân chúng không nhất luận như nhau, trong dân chúng cũng có nhiều tầng lớp khác nhau, ý kiến khác nhau, có lớp tiên tiến, có lớp lưng chừng, có lớp lạc hậu. Cho nên, tùy theo từng đối tượng, trình độ mà chọn phương pháp tuyên truyền, mỗi đối tượng có một cách tuyên truyền khác nhau, “một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên truyền huấn luyện với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đối cho thích hợp”[7]. Bởi vậy, cán bộ phải tìm hiểu để có kiến thức về trình độ nhân dân nơi mình đến tuyên truyền cùng những phong tục, tập quán của địa phương ấy, nghĩa là phải nắm vững đối tượng, nắm chắc thực tiễn “bởi vì đời sống, trình độ đồng bào … khác nhau cho nên tuyên truyền huấn luyện phải khác nhau”[8]. Đặc biệt, phải chú trọng ưu tiên cho lớp đối tượng có trình độ nhận thức, trình độ văn hóa thấp, vì đối tượng này hiểu được thì các đối tượng khác cũng sẽ nắm bắt dễ dàng. Riêng với đồng bào miền núi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo “một là gì, hai là gì, rồi ba, bốn, năm là gì? Làm như thế nào”[9]. Nói thiết thực, nói đúng lúc, đúng chỗ”[10].
Về phương pháp tuyên truyền: Là sự nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ: ngắn gọn trong sáng, giản dị, dễ hiểu phù hợp với trình độ nhận thức, sự hiểu biết và cách suy nghĩ của từng đối tượng người đọc, người nghe. Do đó, Người yêu cầu “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng”[11]. Đồng thời, Người nhắc nhở, phê phán một số báo cáo viên thiếu chủ động trong việc chuẩn bị bài nói, thuyết trình “Nhiều người trước khi nói không sắp sửa kỹ càng. Lúc ra nói hoặc lắp lại những cái người trước đã nói. Hoặc lắp đi lắp lại cái mình đã nói rồi”[12].
Đối với đội ngũ cán bộ tuyên truyền: Bác chỉ rõ, “Tuyên truyền huấn luyện phải xuất phát từ chỗ nào? Xuất phát từ nhiệt tình cách mạng, tình thương yêu chân thành đồng bào các dân tộc, từ tinh thần hết lòng phục vụ đồng bào các dân tộc. Có như thế, mới tìm ra cái đúng, cái hay mà làm”[13]. “Phải có lòng tự tin, tin vào mình, tin Đảng, tin giai cấp, tin nhân dân mình”[14], “phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm”[15], “Thấy dân làm việc gì, bất kỳ to nhỏ, ta cũng ra tay làm giúp. Đó là cách gây cảm tình tốt nhất, nó sẽ giúp cho việc tuyên truyền kết quả gấp bội”[16]. Thực tế, một khi cán bộ tuyên truyền đã hòa mình vào với nhân dân, hiểu nhân dân, xây dựng tình cảm tốt nhất với nhân dân, chắc chắc hoạt động tuyên truyền sẽ tạo được sức cuốn hút và cảm hoá mọi người, sẽ thu được hiệu quả cả về nhận thức lẫn hành động đối với quần chúng.
Đồng thời, khi tuyên truyền, người cán bộ phải “Phải biết cách nói. Nói thì phải giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được”[17]. Vì vậy, người tuyên truyền phải học cách tuyên truyền của quần chúng. Đó là sự kết hợp của việc học trong sách vở, học trong thực tiễn công tác, là người hiểu biết rộng, phải chú trọng “nâng cao trình độ lý luận, gắn liền công tác lý luận với thực tiễn cách mạng; phải đi sát thực tế, phải liên hệ mật thiết với quần chúng”[18], phải có vốn sống phong phú, phải là người biết tổ chức quần chúng, người thức tỉnh và tập hợp được quần chúng…Đặc biệt, để thực sự là phát huy vai trò, hiệu quả của các lực lượng làm công tác tuyên truyền, ngoài tài năng và trình độ lý luận chính trị, trình độ tri thức rộng về lịch sử, địa lý, khoa học, xã hội, chính trị, phải có đủ chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, Tác phong gần gũi, giúp đỡ quần chúng, lời nói và việc làm phải đi đôi, phải thực sự nêu gương trước quần chúng, bởi : “Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích”[19].
Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh nói riêng là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta, là kim chỉ nam cho cán bộ làm công tác tuyên giáo các cấp nói chung, đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị nói riêng. Thực tế, công tác tuyên truyền là công tác hết sức rộng lớn, đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tầng lớp nhân dân nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức, thống nhất ý chí cũng như hành động trong Đảng, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân; cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Đồng thời, là công cụ chủ lực nhằm chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng trong giai đoạn hiện nay.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.319.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.466.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 9, tr.246.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, H. 2011, t.2, tr.283.
[5] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.162.
[6] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.128.
[7] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.128.
[8] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.128.
[9] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.129.
[10] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.130.
[11] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.300.
[12] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.304.
[13] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.385.
[14] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.385.
[15] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.385.
[16] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.163.
[17] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.162.
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.157.
[19] Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 5, tr.126.