Quan hệ quốc tế từ tầm nhìn và bản lĩnh Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế bao hàm những nguyên lý, nội dung, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Người đề cao các quyền dân tộc cơ bản, bao gồm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hòa bình và chống chiến tranh xâm lược.
Người nhấn mạnh ngoại giao, “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”[1]; độc lập tự chủ, tự lực tự cường phải gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế, theo đó Việt Nam sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[2]. Người hết sức coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới; phối hợp mặt trận ngoại giao với mặt trauajn quân sự, chính trị; mở rộng bang giao với các nước trong khu vực và trên thế giới; xử lý tốt quan hệ với các nước lớn để phục vụ lợi ích cách mạng…
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt Việt Nam vào sự phát triển chung của thế giới, “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới...Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cũng không thể đi ngược dòng lịch sử được”[3]. Người viết: “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”[4]. Đây là sự thể hiện rõ nhất của cách tiếp cận mang tính hệ thống, biện chứng và duy vật lịch sử mácxít trong quan hệ quốc tế.
Trong đánh giá cục diện thế giới, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến các trào lưu lớn. Đó là những tư tưởng tiến bộ của thời đại, những mô hình phát triển mới có tính chất khai sáng và giải phóng cho những phong trào cách mạng và tiến bộ xã hội, từ đó hình thành những trào lưu phát triển trong tình hình thế giới. Chính vì thế, Người nhấn mạnh: “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới”[5]. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đề cao vai trò của các nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn trong cục diện thế giới. Người cho rằng: “Đời sống và xã hội hiện nay phụ thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn mạnh và vào những đường giao thông”. Các nước lớn có vai trò quan trọng đối với vấn đề chiến tranh và hòa bình. Cho nên, “Thế giới hòa bình có thể thực hiện nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng cách thương lượng”[6].
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường là tư tưởng nổi bật trong toàn bộ hoạt động lý luận và thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”[7]. Song, với Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ không có nghĩa là khép kín mà có mối liên hệ hữu cơ với đoàn kết và hợp tác quốc tế.
Chủ trương quan hệ tốt với tất cả các nước, song trong quan hệ đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc ưu tiên thúc đẩy quan hệ tốt với các nước láng giềng và các nước lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc. Với các nước Đông Dương Nguyễn Ái Quốc chủ trương tăng cường đoàn kết, liên minh chiến đấu, hình thành mặt trận đoàn kết của nhân dân Đông Dương chống kẻ thù chung. Trong quan hệ với các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thế hiện sự nhạy bén, giữ vững các nguyên tắc bất biến là độc lập, tự chủ, quan hệ hữu nghị, song mềm dẻo và linh hoạt về sách lược theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Với Người, độc lập tự chủ phải gắn với việc mở rộng quan hệ đối ngoại toàn diện và rộng khắp, song có trọng tâm trọng điếm nhằm phục vụ tốt nhất cho các mục tiêu của cách mạng nước nhà.
Tuy nhiên, hợp tác quốc tế trên cơ sở lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu đó chính là mục tiêu cốt lõi, Người khẳng định, phải có tinh thần dân tộc vững chắc”[8], “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm”[9], “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”[10]. Như vậy, quá trình hoạt động cách mạng và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Mình đã giúp cho Người có phương pháp luận biện chứng mácxít, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng quan điểm toàn diện và hệ thống để tiếp cận nhiều vấn đề then chốt về quan hệ quốc tế và lợi ích dân tộc.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Đây là một nội dung hết sức quan trọng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Sức mạnh dân tộc Việt Nam là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại. Giữa các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ và không thể tách rời. Sức mạnh dân tộc chính là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, là sức mạnh của ý chí dân tộc kết hợp với chính nghĩa. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người kêu gọi bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh đuổi thực dân cứu Tổ quốc.
Sức mạnh thời đại trong tư duy đối ngoại Hồ Chí Minh là một khái niệm hết sức rộng lớn. Cũng như sức mạnh dân tộc, nó bao hàm cả yếu tố vật chất, yếu tố tinh thần và yếu tố xu thế là những trào lưu lớn của thế giới. Đó là phong trào giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ hai mà Người đã sớm nhìn ra bằng nhãn quan chính trị nhạy bén của mình, để từ đó dẫn dắt Việt Nam thành một trong những con sóng đi đầu của làn sóng ấy. Đó là tinh thần phản đối chiến tranh và yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới và ở ngay trong lòng nước Mỹ đã góp phần đẩy lùi cuộc chiến phi nghĩa của Mỹ tại Việt Nam. Kho tàng tri thức vô tận của nhân loại mà dân tộc Việt Nam không ngừng tiếp thu trong quá trình giao lưu với thế giới cũng là một bộ phận quan trọng của sức mạnh thời đại. Có thể nói, sức mạnh thời đại luôn mang nội dung mới, phản ánh dòng chảy của lịch sử và sự vận động của tình hình thế giới.
Yếu tố căn bản để phát huy hiệu quả sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là lấy sức mạnh dân tộc làm nền tảng, giữ vững tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ngoại giao là một mặt trận, kết hợp mặt trận ngoại giao với mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nêu một số quan điểm và nguyên lý về vai trò quan trọng của ngoại giao, cũng như phương thức tổ chức đế phát huy vai trò cùa ngoại giao khi đã trở thành một mặt trận, phối hợp chặt chẽ với quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong những năm 1945-1946, Đảng ta xác định: “Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cần yếu cho một nước độc lập”[11]. Đồng thời nêu rõ mối quan hệ giữa ngoại giao với quân sự và điều cốt yếu phải xây dựng thực lực: “Muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”[12], bởi “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[13]; “mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”[14].
Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 4 năm 1969 khẳng định: Ngoại giao trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Có thể khẳng định, tư tưởng ngoại giao là một mặt trận được Đảng ta tổng kết nâng lên thành lý luận chỉ đạo hoạt động đối ngoại. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh vai trò đối ngoại nhân dân như là một lực lượng, binh chủng quan trọng của hoạt động đối ngoại. Mặt trận ngoại giao có sự kết hợp giữa hoạt động ngoại giao với quân sự, chính trị, phối hợp các hình thức đấu tranh giữa ngoại giao Đảng, Nhà nước, Quốc hội, các ngành các cấp và các tổ chức quần chúng nhân dân tạo nên những chiến dịch hoạt động đối ngoại với quy mô, phạm vi rộng, đa dạng, phát huy hiệu quả cao phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ cách mạng giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Kế thừa, vận dụng sáng tạo tư duy, bản lĩnh hội nhập quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định nhiệm vụ trọng tâm của hội nhập quốc tế là tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định cho mục tiêu phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung ương 13 khóa VI (tháng 5-1988) nhấn mạnh chính sách thêm bạn, bớt thù, đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc độc lập, chủ quyền, cùng có lợi.
Đại hội VII đề ra chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả cấc nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa binh, độc lập và phát triển”[15], đây là bước chuyển cơ bản mở ra thời kỳ mới trong quan hệ đối ngoại của đất nước. Tư tưởng này liên tục được phát triển và hoàn thiện qua các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII của Đảng đều khẳng định, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là: Độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của lực lượng hòa bình dân chủ, xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trước yêu cầu mới của tình hình trong nước và quốc tế, Việt Nam tiếp tục xây dựng chiến lược ngoại giao toàn diện, phục vụ hiệu quả hơn nữa cho các mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, nhằm “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[16].
Cẩm Trang
[1] Bác Hồ nói chuyện tại Hội nghị ngoại giao 1964. Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Việt Nam.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 5, trang 256.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.CTQG, HN.2011, t.3, tr.464-465.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr.173.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd, t.3, tr.464.
[6] Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr.281.
[7] Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr.136.
[8] Hồ Chí Minh, Sđd, t-7, tr.455.
[9] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao.
[10] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao.
[11] Văn kiện Đảng toàn tập, NxbCTQG, HN 2000, t.8, tr.290
[12] Văn kiện Đảng toàn tập, NxbCTQG, HN 2000, t.8, tr.27.
[13] Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.126.
[14] Hồ Chủ tịch nói chuyện với hội nghị ngoại giao năm 1964 và 1966, tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao
[15] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.147.
[16] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQG, sự thật, HN 2021, tập 1, tr 161-162.