Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975
48 năm trước, ngày 23/3/1975, Gia Nghĩa được giải phóng. Một ngày sau, ngày 24/3/1975, ta cơ bản giải phóng và làm chủ hoàn toàn Tây Nguyên, tạo đột biến chiến lược, hệ thống ngụy quyền sụp đổ trên diện rộng, tạo đà cho Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ngày 30/4/1975.

Quân Giải phóng đánh chiếm sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy quân Sài Gòn tại Buôn Ma Thuột, ngày 11/3/1975 (Ảnh tư liệu)
Là nơi hiểm yếu nhất của địch trên chiến trường miền Nam, mùa Xuân năm 1975, Tây Nguyên được chọn làm hướng đột phá chiến lược cho cuộc tổng tiến công theo kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam, trong đó Nam Tây Nguyên là địa bàn thuận lợi để thực hiện ý định ban đầu giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột làm bàn đạp.
Theo đó, Xuân - Hè năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A 275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm năm sư đoàn (10, 320, 316, 3, 968) và bốn trung đoàn bộ binh, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, hai trung đoàn pháo binh, một trung đoàn tăng - thiết giáp, ba trung đoàn pháo phòng không.
Để bảo đảm đánh chắc thắng, Bộ tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm “trói địch ở Buôn Ma Thuột mà đánh”. Theo đó, ta thực hiện nghi binh nhử địch, kéo chúng dồn lực lượng về hướng Kon Tum, Pleiku rồi hãm chúng ở đó, khiến địch sơ hở, tạo thuận lợi cho ta bí mật cơ động lực lượng hình thành thế trận chia cắt, vây hãm rồi tiến công địch ở Buôn Ma Thuột. Bởi vậy, ngay từ đầu tháng 3/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng Sư đoàn 968 hoạt động nghi binh ở khu vực Bắc Tây Nguyên khiến Sư đoàn 23 địch phải chuyển một bộ phận lực lượng từ Buôn Ma Thuột lên Kon Tum, Pleiku đối phó.
Ngày 4/3/1975, bộ đội ta chính thức nổ súng mở Chiến dịch Tây Nguyên. Từ ngày 4 - 9/3/1975, quân ta đánh cắt giao thông trên các đường số 19, 21, cô lập Tây Nguyên với vùng duyên hải miền Trung, chia cắt đường số 14 để cô lập hai khu vực Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn (ngày 8/3/1975), Đức Lập (ngày 9/3/1975), cô lập triệt để Buôn Ma Thuột.
Ngày 10- 11/3/1975, quân ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt thứ nhất của chiến dịch. Tiếp đó, từ ngày 14 - 18/3/175, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 trong trận Nông Trại - Chư Cúc, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai.
Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của quân ta, từ ngày 15/3/1975, quân địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường số 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển Khu 5. Không bỏ lỡ thời cơ, bộ đội ta kịp thời truy kích, tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy trên đường số 7, với các trận Cheo Reo (từ ngày 17 - 19/3/1975), Củng Sơn (ngày 24/3/1975), giành thắng lợi trong trận then chốt thứ ba…
Có thể thấy, chưa chiến dịch nào mà quân đội ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều hình thức tác chiến như chiến dịch Tây Nguyên, điển hình như: Đánh chia cắt giao thông, đánh thị xã, chi khu, đánh địch phản đột kích, đánh địch rút chạy; tổ chức nghi binh tạo thế trận, thu hút, giam chân chủ lực địch trên hướng thứ yếu (Bắc Tây Nguyên), tập trung tạo ưu thế binh lực trên hướng chủ yếu (Nam Tây Nguyên), thực hiện bao vây, chia cắt từng cụm cứ điểm, kết hợp đột phá với luồn sâu, thọc sâu, hiệp đồng binh chủng, trong ngoài cùng đánh, phá vỡ hệ thống phòng thủ kiên cố của địch, kéo chúng ra ngoài công sự kiên cố để tiêu diệt, vận động tiến công tiêu diệt địch khi rút chạy… Trong chiến dịch, ta đã chọn đúng hướng chủ yếu là Nam Tây Nguyên và chọn đúng mục tiêu tiến công chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Đặc biệt, với việc thực hiện nghệ thuật nghi binh, tạo thế, giữ vững quyền chủ động tiến công trong suốt quá trình chiến dịch, khiến địch hoàn toàn bị bất ngờ, dẫn đến nhanh chóng thất bại.
Chỉ trong 20 ngày (4-24/3/1975), ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu trên 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, giải phóng năm tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức) và một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ. Chiến thắng ở Tây Nguyên còn tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển chiến dịch, mở ra thời cơ chiến lược để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975.
Có thể khẳng định, thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị động, bị suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường. Hệ thống phòng thủ của địch bị phá vỡ. Chiến trường miền Nam bị chia cắt thành hai cụm (Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn), chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và rơi vào tình trạng hoàn toàn bị động.
Trước thắng lợi đó, ngày 27/3/1975 Tổng Bí thư Lê Duẩn chỉ đạo: “Chiến thắng oanh liệt ở Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên đã tạo ra thời cơ giải phóng Đà Nẵng… Trong lúc này, thời gian là lực lượng. Phải hành động hết sức táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay”.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở Tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu”. Rõ ràng, chiến thắng Tây Nguyên đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thắng lợi vang dội có ý nghĩa to lớn cả về chính trị và quân sự, đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Cẩm Trang