Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là trang sử hào hùng, một dấu son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, là kết quả của tinh thần yêu nước truyền thống đã tích tụ lâu đời trong khối đại đoàn kết toàn dân, hun đúc thành ý chí quật khởi vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh, đồng thời là thắng lợi của phương pháp cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng ta cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Cơ sở của bạo lực cách mạng bao gồm hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, được biểu hiện bằng hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang và sự kết hợp cả hai hình thức đó. Theo đó, tại Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh với các đoàn thể quần chúng mang tên cứu quốc. Việt Minh là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị cho cách mạng, một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trên cơ sở lực lượng chính trị vững chắc, Đảng và Hồ Chí Minh từng bước chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, bao gồm lực lượng vũ trang tập trung là Việt Nam Giải phóng quân và lực lượng bán vũ trang gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu rộng khắp. Cả hai lực lượng chính trị và vũ trang đều là chỗ dựa của bạo lực cách mạng, là điều kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, lực lượng chính trị quần chúng có vũ trang thô sơ là lực lượng đông đảo nhất và giữ vị trí quyết định. Lực lượng vũ trang, tuy số lượng không nhiều, thiếu thốn về trang bị, non yếu về trình độ tác chiến, nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động công kích quân sự ở một số nơi, gây thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng nòng cốt, lực lượng xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Bằng sự kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị vối đấu tranh vũ trang, Cách mạng Tháng Tám có sức mạnh áp đảo, đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Kết hợp khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị
Khác với cách mạng Nga, từ thành thị phát triển về nông thôn; cách mạng Trung Quốc, từ nông thôn vào thành thị, lấy nông thôn bao vây thành thị, Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam đã diễn ra với sự kết hợp hài hoà nông thôn và thành thị.
Trên thực tế, ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9- 1939), Đảng chủ trương chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, ra sức chỉ đạo xây dựng lực lượng và căn cứ địa cách mạng ở các vùng nông thôn. Mặt khác, Đảng không coi nhẹ vai trò thành thị. Bởi vậy, tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị bàn việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến việc chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp, đặc biệt chú trọng đến công tác công vận, xây dựng cơ sở cách mạng trong công nhân, nhất là ở các thành phố lớn, nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa. Đồng thời phải chú trọng mở rộng phong trào cách mạng trong thanh niên, học sinh, trí thức làm cho cuộc khởi nghĩa mang tính chất toàn dân.
Tháng 8 -1945, Đảng quyết định tổng khởi nghĩa với chủ trương: “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê, thành lập những uỷ ban nhân dân những nơi ta làm chủ”[1]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bão táp cách mạng dồn dập nổi lên (cả thành thị và nông thôn). Lò lửa của cuộc khởi nghĩa dân tộc bùng cháy. Rõ ràng, trên cơ sở nhận thức đúng vai trò của nông thôn và thành thị, Đảng coi nông thôn là trận địa vững chắc, dựa vào nông thôn để phát triển lực lượng chính trị; xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; đồng thời coi thành thị là địa bàn xung yếu tăng cường xây dựng cơ sở chính trị ở thành thị. Đó là điều kiện để có thể phát động toàn dân nổi dậy ở cả nông thôn và thành thị nhằm vào các cơ quan đầu não của kẻ thù có tác dụng quyết định thắng lợi của Tổng khởi nghĩa.
Đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa
Đi từ khơi nghĩa từng phần tiến lên tổng khơi nghĩa là một điển hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang. Tại Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) chủ trương trong những hoàn cảnh nhất định, “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”[2].
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, nhận định cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, do đó Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Cùng với đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, đó là phương pháp duy nhất của dân tộc để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều kiện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ với nhiều hình thức: chiến tranh du kích cục bộ ỏ vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ; phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian ở các đô thị nhất là những thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn; khởi nghĩa Ba Tơ; báo chí cách mạng đều ra công khai và gây ảnh hưởng chính trị vang dội... Có thể khẳng định, cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc tập dượt vĩ đại, làm cho toàn Đảng, toàn dân ta sẵn sàng, chủ động tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa. Đó là một quá trình đẩy nhanh sự tích luỹ về lượng để dẫn tới bước nhảy vọt về chất khi thời cơ đến. Đây là một nét độc đáo của Cách mạng Tháng Tám, một điển hình thành công trong nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang của Đảng
Nghệ thuật đánh giá và chớp thời cơ
Bước sang những năm 1943-1944, Đảng ta phân tích một cách khách quan, toàn diện tương quan lực lượng giữa Nhật, Pháp, “Chúng ta đang tiến tới tình hình tổng khủng hoảng chính trị ở Đông Dương. Phải kịp mài gươm, lắp súng để mai đây Nhật, Pháp bắn nhau, kịp nổi dậy tiêu diệt chúng, giành lại giang san, Tổ quốc”[3]. Và khẩn thiết kêu gọi: “Bỏ lỡ cơ hội là một tội ác. Phải sẵn sàng đón lấy thời cơ và chuẩn bị đủ điều kiện tóm lấy nó”[4]. Tháng 10-1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra dự báo: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”[5].
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Nắm bắt thời cơ, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ban hành Lệnh khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi Đồng minh vào Đông Dương. Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[6]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam nhất tề nổi dậy với tinh thần: dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Cách mạng Việt Nam nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa. Rõ ràng, nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ, Cách mạng Tháng Tám đã giành được thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”. Đó là một điển hình thành công về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đoán thời cơ, nhận định chính xác thời cơ, đồng thời kiên quyết chớp thời cơ phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyển.
Có thể khẳng định, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, để lại kinh nghiệm quý về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; đi từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở nông thôn; tiến lên chớp đúng thời cơ tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.
Cẩm Trang
[3] Trường Chinh: Cách mạng dân tôc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. CTQG, H. Tập 1, tr. 294.
[4] Trường Chinh: Cách mạng dân tôc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. CTQG, H. Tập 1, tr. 295.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, tập 3, tr 505-50.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 596.