Chủ tịch Hồ Chí Minh với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ
Chiến dịch Điện Biên Phủ trở thành mốc son chọi lọi trong lịch sử dân tộc, một chiến thắng lừng lẫy năm châu, trận động địa cầu.
Chiến thắng ấy, trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - người chỉ đạo sát sao, giáo dục động viên, cổ vũ kịp thời toàn quân, toàn dân ta trong suốt cuộc tiến công chiến lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sỹ lập thành tích xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 (Ảnh: Tư liệu)
|
Người chỉ huy tối cao của chiến dịch
Sau chiến thắng của quân và dân ta trên các chiến trường (1951-1953), ta từ bị động chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển dần sang thế mạnh, từ thế thủ chuyển sang thế công, trên đà thắng lợi đó nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Tuyệt đối chớ vì thắng mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch. Chúng ta phải nhớ rằng: Càng gần thất bại, địch càng cố gắng, càng hung dữ, càng liều mạng. Càng gần thắng lợi, ta càng gặp nhiều sự gay go. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng tinh thần và lực lượng để đối phó với những khó khăn mới”[1]. Thật vậy, trước nguy cơ kế hoạch Nava bị phá sản, thực dân Pháp tăng cường lực lượng, xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “một pháo đài không thể công phá”, nhằm tạo bàn đạp chiến lược khống chế khu vực Tây Bắc, Thượng Lào nhằm “nghiền nát” quân chủ lực của ta.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn... Phương hướng chiến lược không thay đổi. Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hành động có thể thay đổi. Phép dùng binh là thiên biến vạn hóa”[2]. Cùng với đó, đầu tháng 12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”[3], “Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”[4]. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành kim chỉ nam trong tư duy chiến thuật của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta khi đối mặt với kẻ thù.
Trên cơ sở phương châm tác chiến mà Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng, Bộ Chính trị thông qua phương án tác chiến do Tổng Quân uỷ soạn thảo với nội dung: Ta không đánh lớn ở đồng bằng là nơi địch có nhiều ưu thế, mà đánh mạnh lên Tây Bắc và Lào là nơi địch yếu nhưng chúng không thể bỏ. Đưa bộ đội lên hướng đó tuy có khó khăn rất lớn về tiếp tế, nhưng ta buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh hoạt động trên khắp các chiến trường sau lưng địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Theo như kế hoạch ban đầu, ta nổ súng mở màn chiến dịch với phương châm là “đánh nhanh, giải quyết nhanh” trong vòng 3 đêm 2 ngày. Nhưng, trước thực tiễn chiến trường và quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển phương châm tác chiến sang “Đánh chắc, tiến chắc” ngay trước giờ mở màn chiến dịch. Đây được coi là sự kiện kịch tính nhất trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp, với quyết định này, trận Điện Biên Phủ được lùi lại một tháng rưỡi so với kế hoạch đã được xác định, điều mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi là “quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời chỉ huy của mình.
Người động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân, dân ta
Khi quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn bạc, phân tích rất kỹ để tìm ra phương án thích hợp huy động sức mạnh của toàn quốc chi viện cho chiến dịch đảm bảo chắc thắng. Một cuộc vận động nhân dân chi viện Điện Biên Phủ đã được triển khai rầm rộ, với quy mô lớn chưa từng có. Nhân dân ta - từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy tinh thần cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc. Trong suốt chiến dịch, “nhân dân đã đóng góp trên 25.000 tấn gạo, trên 260 tấn muối, gần 2.000 tấn thực phẩm, trên 26.000 lượt dân công với trên 18 triệu ngày công, xấp xỉ 21.000 xe đạp thồ, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và trên 3.000 chiếc thuyền”[5]. Có thể khẳng định, chính sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân là yếu tố tạo nên thành công vượt bậc đó. Và, người đã tập hợp, huy động được sức mạnh đó chính là Đảng ta, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong suốt chiến dịch diễn ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo dõi, nắm tin tức từng ngày, từng giờ trên chiến trường và kịp thời gửi thư thăm hỏi, động viên cho cán bộ và chiến sĩ đang chiến đấu trên mặt trận: “Thu – Đông năm nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào bị giặc đè nén... Bác rất vui lòng... các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh... Bác và Chính phủ chờ tin thắng lợi để khen thưởng các chú”[6].
Tháng 2/1954, Người gửi thư cho cán bộ và chiến sĩ, toàn thể các đơn vị, các binh chủng, bộ đội: “Các chú ra trận, nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh quang…Bác tin chắc rằng, các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang. Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất. Chúc các chú thắng to - Bác hôn các chú”[7].
Sau ngày giành chiến thắng (8/5/1954), Bác đã viết thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc - những người trực tiếp làm nên chiến thắng vĩ đại này, Bác viết: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sỹ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn, nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn, Bác và Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sỹ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt”[8]. Có thể khẳng định, những lời động viên kịp thời của Người đã biến thành hành động thực tế, thôi thúc ý chí, quyết tâm chiến đấu, quyết chiến, quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ.
Người tích cực đấu tranh trên mặt trận ngoại giao
Trên cương vị là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao. Tháng 12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại một lần nữa, “...nếu Chính phủ Pháp muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và muốn giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà bình, thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng sẵn sàng nói chuyện”[9]. Chính lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một đòn tấn công chính trị, ngoại giao và là câu trả lời đầy tính chất chính nghĩa, đề cao thiện chí hoà bình của nhân dân ta. Mặc dù vậy với việc triển khai kế hoạch Nava, Chính phủ Pháp vẫn đang chờ đợi một thắng lợi quân sự trước khi đi đến thương lượng.
Thấy trước ý đồ trên của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cho rằng, căn cứ vào tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc này, điều kiện thương lượng chưa chín muồi. Người nói: “Mục đích của nó là xâm lược. Nó mất 99% còn hy vọng 1%, nó vẫn đánh. Phải đánh nó qụy nó mới chịu”[10]. Đồng thời, Người nhấn mạnh: “Chúng ta tuyệt đối chớ có ảo tưởng rằng, hoà bình là một việc dễ dàng. Hoà bình phải do đấu tranh gian khổ mới giành được”[11].
Tại cuộc họp Bộ Chính trị (5-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Ta kháng chiến, ta đàm phán cũng đều nhằm một mục đích giành độc lập, thống nhất thật sự cho dân tộc. Hiện nay, súng ở trên mặt trận bắn càng nhiều, càng trúng địch chừng nào thì trận bàn họp Giơnevơ ta lại càng thêm lợi thế chính trị chừng ấy”[12]. Thực hiện chủ trương trên, quân và dân ta đẩy mạnh mọi mặt công tác trong toàn quốc. Bộ đội đánh thắng ở Điện Biên Phủ, quân và dân trên các chiến trường khác, đặc biệt là ở vùng sau lưng địch tích cực đánh giặc. Ở vùng tự do, đẩy mạnh giảm tô, cải cách ruộng đất, hăng hái tòng quân, đi dân công. Trong vùng địch tạm chiếm thì đấu tranh chống bắt lính, đòi địch chấm dứt chiến tranh...Phái đoàn ta ở Giơnevơ bước vào bàn hội nghị với một lợi thế của người chiến thắng.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, anh dũng của quân, dân ta và là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tầm vóc, ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ đã gắn liền với vai trò và tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là công đầu thuộc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hồ Chí Minh là một nhà chiến lược thiên tài, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam”[13].
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2009, t.6, tr.135.
[2] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2007, t. 5, tr 374.
[3] Chiến thắng Điện Biên Phủ-sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, 1994, tr.299.
[4] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, H.2006, tr. 200.
[5] Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, Tổng cục hậu cần, 1979, tr. 554.
[6] Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 1962, tr 150.
[7] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2007, t. 6, tr 135.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, t.7, tr.272.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, t. 7, tr. 192.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1997, t. 7, tr. 112-113.
[11] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2007, t. 5, tr. 42 .
[12] Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2007, t. 5, tr. 486 .
[13] Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2000, tr 294, tr 133.