Giá trị trường tồn của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”!
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam đã cống hiến cả đời cho sự nghiệp cách mạng dân tộc.
Suốt những năm tháng hoạt động cách mạng, Người đã để lại cho dân tộc một sự nghiệp vĩ đại, di sản tinh thần vô giá. Một trong những quan điểm quan trọng, xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh đó là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Quan điểm này của Người cũng đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng sâu sắc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc và phát triển đất nước trong thời đại ngày nay.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được Người đề cập ngày 17 tháng 7 năm 1966 trong lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[1]. Đó không chỉ là lời hiệu triệu toàn dân đứng lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân, mà còn thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc, soi đường cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ý chí kiên cường, bất khuất ấy đã được Đảng ta chú trọng, vận dụng một cách sâu sắc thể hiện ở những nội dung cụ thể sau đây.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là động lực lớn của đất nước
Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với nghĩa là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính. Coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác. Qua đây càng chứng tỏ “Độc lập tự do” là vấn đề cấp thiết với một đất nước đang chịu cảnh đàn áp của thực dân. “Độc lập tự do” không phải tự nhiên mà có, cũng không phải chờ sẵn vào sự ban phát của các thế lực đối lập. Muốn có được “Độc lập tự do” thì phải tự thân vận động “đem sức ta mà giải phóng cho ta. Do đó “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là mệnh đề hành động, là tiếng gọi thiên liêng của Tổ quốc thúc giục mọi người dân đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức đúng đắn, từ đó áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa nhân dân tiến hành cách mạng thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là giá trị bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong suốt quá trình tìm đường nước, Người luôn nuôi khát vọng tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc. Người khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng, giải phóng dân tộc Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng vô sản. Người đã nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”[2].
Sau khi về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cùng với toàn Đảng ta đã kiên trì con đường cách mạng đã lựa trọn, trong đó nội dung “bất biến” là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: ““Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, dân tộc,… Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[3]. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, khẳng định với toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”[4].
Như vậy, Chủ tịch Hổ Chí Minh đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự đấu tranh vì “độc lập tự do” cho Tổ quốc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Tư tưởng này đã được Đảng ta gìn giữ và vận dụng một cách sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong xu hướng toàn cầu hóa hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, hơn lúc nào hết toàn Đảng, toàn dân ta phải nêu cao ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc, lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển toàn diện.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1930, trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy từ khi ra đời Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng và giành được nhiều thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng tháng Tám 1945 đã đập tan ách đô hộ của thực dân Pháp và phong kiến trên đất nước ta, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người dân độc lập, tự do, làm chủ nước nhà. Năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[5]. “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”[6]. Do đó, giành được độc lập rồi, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Do đó, Người khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”[7].
Như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cho đến ngày nay, đó vẫn là sự lựa chọn của toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình quốc tế chuyển biến rất phức tạp. Trước sau như một, Đảng và nhân dân ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xoá bỏ tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng.
Khẳng định, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà đó chính là tư tưởng, lẽ sống, là lý tưởng phấn đấu của cả dân tộc Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đó là một chân lý, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc. Giá trị của chân lý “không có gì quý hơn độc lập ,tự do” không chỉ thể hiện trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ tổ quốc, mà còn thể hiện rất sâu sắc trong quá trình xây dựng xã hội mới hiện nay.
Thấu hiểu ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh về một đất nước tự do, độc lập, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong suốt chặng đường lịch sử đầy bão táp, từ một quốc gia kém phát triển, ảnh hưởng nặng nề bởi nhiều năm chiến tranh và bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã từng bước khẳng định uy thế, vai trò, vị thế của mình trên trường quốc tế. Từ một nước nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã tích cực hội nhập quốc tế, vươn lên trở thành hình mẫu phát triển kinh tế - xã hội, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Dấu ấn Việt Nam được khẳng định qua 37 năm đổi mới, đất nước ra đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Qua đó khẳng định, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là lời hiệu triệu, là khát vọng và niềm tự hào của các dân tộc trong mọi thời đại.
Cẩm Trang
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia H.2011, tr 131
[2] Hồ Chí Minh: Sđd, t. 4, tr. 289
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.113
[4] Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr.12
[5] Hồ Chí Minh, toàn tập,tập 10, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002, tr.128
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia H.2011, tr. 128
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia H.2011, tr. 173