Ơn Bác - Nhân dân Vùng Tây Nguyên quyết tâm phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh bền vững (Hướng tới kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2023))
Lúc sinh thời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta chưa có dịp để một lần vào thăm đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, song tình cảm của Bác luôn hướng về Tây Nguyên, hướng về miền Nam ruột thịt. Đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên cũng mãi dành trọn niềm tin và lòng thành kính sâu sắc đến Người.
Trong những năm tháng kháng chiến, Bác luôn hướng về Tây Nguyên, chia sẻ, động viên đồng bào đoàn kết trong sản xuất và chiến đấu chống quân thù. Nhân Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku ngày 19/4/1946, Bác gửi thư chúc mừng và căn dặn: “Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ. Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào. Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia-rai hay Ê-đê, Xê-đăng hay Ba-na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…”. Trong kháng chiến chống Mỹ, dù bận trăm công ngàn việc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên quan tâm, điện và gửi thư khen ngợi, động viên khích lệ tinh thần đối với cán bộ, quân và dân các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1968, cuộc kháng chiến diễn ra ác liệt ở cả 2 miền Nam - Bắc, Bác Hồ vẫn gửi điện thăm hỏi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên, với nội dung: “Quân và dân Tây Nguyên già trẻ, trai gái, Kinh - Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua giết giặc lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được nhiều thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người lại dặn: “Đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng phát huy mạnh mẽ những thắng lợi đã giành được, luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến…Tây Nguyên nhất định cùng cả nước tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”.
Nhiều người con ưu tú của các dân tộc Tây Nguyên ra Bắc công tác, học tập, đào tạo và đã được vinh dự gặp Bác, như: bác sĩ Y Ngông Niê Kđăm, đại biểu Quốc hội khóa I; anh hùng Núp, Thiếu tướng Y Blôk Êban… Bác đã giành thời gian gặp gỡ từng người, ân cần thăm hỏi, động viên và dặn dò trước khi họ trở về miền Nam phục vụ cho quê hương. Bác nói: “Tây Nguyên là một bộ phận không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất. Một bàn tay hoàn chỉnh phải có cả năm ngón, một ngón tay đau thì cả bàn tay cũng đau”. Những lời căn dặn của Bác khiến mọi người con Tây Nguyên mãi mãi khắc ghi.
Kính Bác, yêu Bác, làm theo lời Bác, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên luôn tin tưởng và tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hàng vạn người dân Tây Nguyên không được may mắn gặp Bác, nhưng họ vẫn luôn có niềm tin, tình cảm hướng về Người. Nhiều người đã gan dạ làm thơ, sáng tác nhạc ca ngợi về Bác Hồ ngay trong những dịp tham gia chương trình văn nghệ do chính Mỹ - ngụy tổ chức…Vào thời kỳ Mỹ - Diệm công khai phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chúng tăng cường “tố cộng, diệt cộng”, cán bộ của ta ở các tỉnh Tây Nguyên được phân công về bám làng, bám dân; cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân; dạy con chữ, chữa cái bệnh cho Nhân dân. Nhân dân nơi đây rất mực tin tưởng vào cán bộ, tin vào Đảng và Bác Hồ. Hình ảnh Bác Hồ đã được khắc sâu trong lòng người dân, với những khái niệm giản dị nhưng thành kính vô cùng: tiếng nói Bác Hồ; anh bộ đội Cụ Hồ; hạt muối, hạt gạo, củ sắn Bác Hồ, cái chữ Bác Hồ… Bà con đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chân tình bộc bạch: “Đảng và Bác Hồ đã bày cho dân biết cái chữ, làm ra đất, làm ra nước, dạy cho dân biết cứu đói, cứu đau, có cái ăn, cái mặc và hiểu biết mọi việc trên đời”…
Vào lúc 9h47’ ngày 02/9/1969 (tức ngày 21/7 âm lịch), Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta qua đời. Chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Thường vụ Khu ủy khu V, từ ngày 04 đến ngày 10/9/1969, tại vùng giải phóng các tỉnh Tây Nguyên, các Ban tang lễ được thành lập để tổ chức lễ tang và truy điệu Bác. Lúc bấy giờ, tỉnh Đắk Nông (Quảng Đức cũ), đúng lúc Khai mạc Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Đức lần thứ nhất đã hoãn lại để tổ chức lễ truy điệu Người, sau đó mới tổ chức khai mạc Đại hội Đảng bộ tỉnh vào ngày 05/9/1969. Đồng bào Đắk Nông và toàn Tây Nguyên, kể cả đồng bào trong vùng địch tạm chiếm đã khóc òa lên khi nghe tin Bác mất. Bằng mọi hình thức công khai hay bí mật, đồng bào các dân tộc đã để tang Bác trong nhiều ngày, có làng đánh chiêng tang báo tin cho nhau…tất cả trẻ em đến cụ già đều tỏ lòng đau thương vô hạn. Bác không còn là một mất mát không thể bù đắp. “Hỡi ơi Bok mất đất trời còn không?”
Với tình yêu thương dạt dào đối với Bác, là niềm tin sắt son với Đảng, trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược, Nhân dân Tây Nguyên đã tuyệt đối trung thành với Đảng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói và làm theo lời Bác, thực hiện theo Di chúc của Bác. Trong kháng chiến, Nhân dân nơi đây vẫn luôn phải sống trong cảnh đói cơm, lạt muối, chỉ vì hậu quả của sự khủng bố, bóc lột tàn bạo của bọn thực dân, đế quốc xâm lược. Tuy vậy, với một lòng son sắt đi theo Đảng, theo Bác Hồ; với bản chất cần cù, chịu khó vươn lên trong gian khổ, Nhân dân nơi đây đã tìm mọi cách khắc phục khó khăn, vừa tăng gia sản xuất đóng góp cho cách mạng, vừa trực tiếp cầm súng ra chiến trường…đã cùng với các lực lượng và Nhân dân cả nước giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đang cùng nhau thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn.
Ngày nay, các địa phương trong Vùng Tây Nguyên trong đó có tỉnh Đắk Nông đã nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của Vùng Tây Nguyên. Hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, được quan tâm đầu tư, giúp cải thiện đáng kể sự kết nối giữa các tỉnh trong Vùng, và giữa Vùng với cả nước. Một số địa phương đã có sự phát triển bứt phá, tạo nên những điểm sáng trong Vùng và cả nước. Toàn Vùng đã đạt được nhiều kết quả, thành tích quan trọng.
Để mãi xứng đáng với tình cảm và mối quan hệ gắn bó muôn đời giữa Hồ Chí Minh và các dân tộc Tây Nguyên, Đảng bộ, quân và dân các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục phát huy vai trò, thế mạnh, tiềm năng để thực hiện thành công theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6/10/2022 của Bộ chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Tây Nguyên, phấn đấu đến năm 2030: “Tây Nguyên là vùng phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; giàu bản sắc văn hoá dân tộc; là điểm đến đặc sắc, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; hình thành một số sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn, có thương hiệu quốc tế, gắn với các trung tâm chế biến. Cơ bản hình thành hạ tầng giao thông quan trọng, hạ tầng số. Hệ thống thiết chế văn hoá được nâng cấp. Giải quyết căn bản vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Hệ sinh thái rừng, nhất là rừng đầu nguồn và đa dạng sinh học, được bảo tồn và phát triển; an ninh nguồn nước được bảo đảm. Quốc phòng, an ninh khu vực biên giới được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được duy trì ổn định. Tổ chức đảng, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố, tăng cường”.
Phạm Lục